Hôm nay,  

Khánh Ly - Tiếng Hát và Tấm Lòng

27/06/202500:00:00(Xem: 1299)

Khánh Ly hát trong 'Quán Văn' sau vườn nhà
Khánh Ly hát trong 'Quán Văn' sau vườn nhà
Lần đầu tiên tôi được nghe kể chuyện về ca sĩ Khánh Ly là vào khoảng 10 tuổi. Lúc đó, bố tôi là giáo sư trường Sư Phạm Sài Gòn. Vào một buổi tối, nghe nói Khánh Ly được mời về trường hát. Trong nhà tôi, chị Khánh được theo bố đi nghe nhạc, khuya về kể rằng bố được giao nhiệm vụ tặng hoa cho Khánh Ly. Khi nhận hoa, cô ca sĩ nổi tiếng này còn hỏi rằng: “…Trong truyện Giòng Sông Định Mệnh, tại sao anh không cho Thiệu và Yến lấy nhau?”
 
Chị Khánh mê Khánh Ly lắm, cho nên ở nhà thỉnh thoảng còn được gọi là “Khánh Lỳ”. Chị có mấy cuốn băng cối, hình như có tên là “Khánh Ly Hát Cho Quê Hương Việt Nam”. Chị còn chép lời vào một cuốn nhạc gồm đủ loại tác giả, trong đó có nhiều nhạc Trịnh Công Sơn. Nhờ vậy mà từ nhỏ tôi đã được nghe Khánh Ly hát Ca Khúc Da Vàng, có lời để hát theo, cho nên nhập tâm lúc nào không hay…
 
Lớn lên một chút, sau 1975, người hay kể chuyện về Khánh Ly nhất là anh Trần Đại Lộc. Đi tù cải tạo về từ năm 1978, anh đến nhà tôi chơi, rồi từ đó trở thành “anh Hai Lộc” trong nhà. Anh kể thời làm Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Học Đường (CPS), trong Bộ Dân Vận Chiêu Hồi đã tổ chức nhiều chương trình có Khánh Ly hát, cho nên trở nên thân thiết. Anh Lộc cũng chụp hình chân dung cho Khánh Ly khá nhiều. Đối với anh, Khánh Ly là một ca sĩ sống đặc biệt có tình nghĩa với bạn bè. Dù dư luận văn nghệ sĩ trong nước có một số người nói những điều không hay về người ca sĩ đã di tản từ 1975 này, anh vẫn luôn nói rằng đó là một người bạn mà anh luôn quí trọng.
 
Sang Mỹ vào cuối năm 2006, vào làm cho Việt Báo từ năm 2009, tôi gặp chị Khánh Ly lần đầu tiên là trong tòa soạn, và bắt đầu làm quen với chị từ dạo ấy. Trong một nhóm bạn nhỏ như vậy, tôi có dịp gần gũi với chị hơn, và tự chiêm nghiệm rằng những điều anh Hai Lộc nói về “Khánh Ly sống có tình với bằng hữu” vẫn đúng cho đến tận hôm nay.
 
Vào Tháng Ba vừa rồi là đêm nhạc kỷ niệm sinh nhật 80 của Khánh Ly, và cũng có thể là lần cuối chị trình diễn trên sân khấu lớn. Chỉ vài ngày trước đó, chị bị stroke nhẹ phải vào nhà thương, tưởng đã không thể có mặt. Nhưng rồi chị cũng đến được, vẫn hát trong tình thương yêu của bạn bè, thân hữu. Sau đó Việt Báo có đăng rất nhiều bài viết về Khánh Ly, người ca sĩ huyền thoại gắn liền với những ca khúc của Trịnh Công Sơn, gắn liền với quê hương Việt Nam “…hai mươi năm nội chiến từng ngày…”, là đề tài không bao giờ cũ trong suốt nửa thế kỷ qua. Tình cảm của những người hâm mộ dành cho Khánh Ly sau 60 năm vẫn còn sâu đậm lắm.
 
Riêng tôi đợi cho chị nghỉ ngơi hồi phục sau cơn bệnh, xin một ngày được đến nhà, ngồi tâm tình riêng với chị. Không phải như một người hâm mộ ca sĩ Khánh Ly, mà chỉ là một người bạn nhỏ, nghe chị kể về những vui buồn của 80 năm cuộc đời…
 
Đặc điểm cá nhân nào đã tạo nên một Khánh Ly với một chỗ đứng không thể thay thế trong nền tân nhạc Việt Nam? Theo chị, đó là một niềm đam mê ca hát không gì có thể đánh đổi được. Không hiểu vì sao từ lúc còn bé cắp sách đến trường, chị chỉ nghĩ đến văn học, nghệ thuật âm nhạc; chỉ có một ước mơ và sẵn sàng đánh đổi tất cả mọi thứ để thực hiện cho bằng được: trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp. Trong cuốn tự truyện “Đằng Sau Những Nụ Cười”, chị kể lại chuyện mới 12 tuổi đã dám trốn nhà từ Đà Lạt về Sài Gòn để dự thi một cuộc thi tuyển lựa ca sĩ vào năm 1956. Chị hát bài Ngày Trở Về của Phạm Duy, và đoạt giải nhì. Quả là “gan liền tướng quân!”  Cũng may là ước mơ một đời người cũng đã thực hiện được; để ở tuổi 80 chị không có gì hối tiếc khi chấm dứt sự nghiệp. Để trở thành một ca sĩ đi vào lòng hàng triệu người thuộc nhiều thế hệ, ngoài thiên phú về giọng hát, theo chị điều quan trọng trong đời sống hàng ngày là biết quên đi bản thân để có thể vui buồn cùng với mọi người. Trong suốt 60 năm ca hát từ Việt Nam ra hải ngoại rồi lại trở về Việt Nam, niềm say mê của khán giả bao giờ cũng là niềm hạnh phúc của chị. Chị hát lúc nào cũng đam mê như người yêu với tình yêu đầu đời.
 
Kỷ niệm nào là đẹp nhất, đáng nhớ nhất trong 60 năm ca hát? Đó là lần đầu tiên gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS). Vào một buổi tối năm 1964, TCS và một vài người bạn đến nghe chị hát tại một phòng trà ở Đà Lạt; rồi ông tự giới thiệu mình. Hồi đó, chị chưa hề biết TCS là ai, và cũng chưa từng nghe nhạc của ông. Những ngày sau đó, ông hẹn gặp, tự đàn hát những ca khúc của mình: Tiếng Hát Dạ Lan, Nắng Thủy Tinh, Xin Mặt Trời Ngủ Yên… Chị nghe thấy thích và hát theo, học cách người nhạc sĩ diễn đạt những bài hát. Chị bắt đầu hát nhạc TCS tình cờ như vậy đó. Chị không hề cố ý lựa chọn để hát nhạc TCS; mà cũng không chắc là ông có chủ đích chọn Khánh Ly để hát nhạc của mình. Vậy mà nhạc TCS ngấm vào tâm hồn lúc nào không hay, để rồi nhạc TCS trở thành một phần không thể tách rời giọng hát của Khánh Ly. TCS cũng không hướng dẫn chị phải hát nhạc mình như thế nào. Ông chỉ nói là “…Đừng hát giọng óc nữa, nghe khó chịu lắm…!” Thuở mới đi hát, chị hát toàn nhạc tiền chiến: Con Thuyền Không Bến, Đêm Đông… cho nên hát giọng cao; bây giờ có cố hát lại như vậy cũng không được… Trong cuộc đời ca hát, chị hát nhiều thể loại nhạc, nhiều tác giả, và cũng để lại dấu ấn riêng không kém gì nhạc TCS. Nhưng chị nói rằng chỉ khi hát nhạc TCS là cảm thấy thoái mái, dễ dàng nhất.


Khánh Ly và các 'bạn nhỏ'
Khánh Ly và các 'bạn nhỏ' 
 
Ca Khúc Da Vàng và hát tình khúc TCS có gì khác nhau? Mới nghe thoáng qua, cả hai có cùng loại giai điệu đơn giản mà giàu cá tính; ca từ với thứ ngôn ngữ giàu trí tưởng tượng đặc trưng của TCS. Tuy nhiên, chúng khác nhau ở phần hồn. Hát tình khúc TCS là hát cho một người, cho chính mình; trong khi hát Ca Khúc Da Vàng (CKDV) là hát cho nhiều người, hát cho dân tộc, hát cho quê hương Việt Nam. Trong CKDV có cả tình yêu quê hương, dân tộc và cả tình yêu đôi lứa; có cả hạnh phúc, nỗi đau và niềm hy vọng. Chính CKDV mới thể hiện được trái tim, tâm hồn đáng trân trọng của TCS, một người luôn nghĩ đến nỗi đau, niềm vui của những người khác; muốn an ủi và đem niềm hy vọng chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh trong chiến tranh. Có thể vì vậy mà chị dễ đồng cảm với TCS trong CKDV. Khi hát tình ca TCS, chị nghĩ đến bản thân, đến người yêu. Nhưng khi hát CKDV, chị thấy mình có trách nhiệm với quê hương đất nước, với xã hội, với con người, đặc biệt là những người kém may mắn trong chiến tranh.
 
Tình bạn tri kỷ trong âm nhạc với TCS là một mối quan hệ đặc biệt trong cả cuộc đời chị, nhưng chưa bao giờ là tình yêu nam nữ. TCS là một người nhỏ nhẹ, dịu dàng, từ tốn, nghiêm túc. Chị kính nể ông ngay từ lần đầu gặp gỡ, và vẫn giữ sự kính trọng này cho đến ngày hôm nay. Sự tương kính này hình như đã được xác lập một cách tự nhiên, và cả hai đều giữ mối thâm giao theo đúng cách; nhờ vậy mà tình bạn vẫn giữ được tốt đẹp đến trọn đời.
 
Với Khánh Ly, tình bằng hữu là vô cùng đáng trân trọng, không phân biệt giàu nghèo, xấu đẹp. Đã là bạn sẽ là bạn suốt đời, và chị đối với bạn bè lúc nào cũng đầy, bao giờ cũng hết lòng. Nhóm thân hữu NTM có lẽ là những người cảm nhận điều này nhiều nhất. Bất kể tuổi tác, có tiếng tăm hay không, mới gặp hay đã biết từ lâu, những ai đến chơi với chị đều nhận được sự trân quí như nhau. Chị kho cá, muối cà ngon lắm. Làm xong chia thành từng phần, chị nhớ những ai thích, gọi để đến lấy phần. Vườn nhà chị trồng nhiều cây ăn quả. Đến mùa có trái, chị rủ nhóm đến nhà chơi, mời hái cho hết trái cây bơ, cây bưởi. Hình như niềm vui của mọi người cũng là niềm vui của chị. 
 
Và rồi chị chạm đến tuổi tám mươi… Đến cuối đời, rời xa sân khấu, khán giả, quên đi kẻ ghét người thương, quên đi những vinh nhục của “…đời ca hát ngày tháng cho người mua vui…” (Ánh Đèn Màu). Bên cạnh con cháu, chị vẫn còn những người bạn mà chị yêu quí, có dịp là lại quây quần bên chị. Tôi hỏi chị có tiếc điều gì chưa thực hiện được khi đã rời sân khấu hay không? Chị trả lời là có; vẫn còn một số ca khúc của Phạm Duy, Trịnh Công Sơn chị rất thích mà vẫn chưa bao giờ trình diễn, như bài Đường Chiều Lá Rụng của Phạm Duy. À! Vậy là đối với chị, những bài hát vẫn là niềm say mê đến cuối cuộc đời.
 
Điều quan trọng nhất đối với chị là được hát. Bởi vì giọng hát cho chị tất cả những gì có được trong cuộc đời. Chị tin rằng giọng hát mình có được là do ý chỉ của Thiên Chúa. Tại sao trong hàng triệu Việt người có giọng nói chỉ có một giọng hát Khánh Ly? Cũng vì thế, chị tin rằng đi hát là theo ý chỉ của Chúa; Đức Tin là kim chỉ nam trong suốt sự nghiệp ca hát của chị. Về cuối đời, chị làm nhiều việc thiện cho nhà thờ, đi hát cho cả nhà thờ lẫn chùa chiền; đến thăm viện dưỡng lão, trại mồ côi… đều là cho lý tưởng phục vụ con người.
 
Đến tuổi 80, chị tin rằng mình đã không phung phí điều gì trong cuộc sống, và đã sống trọn vẹn. Chi không còn hối tiếc, không ăn năn, không trông chờ bất cứ một điều gì. Nếu ngoài vườn có một đóa hoa mới nở, chị sẽ ngắm nó mà chẳng nghĩ là hoa nở vì mình. Ngày nào có người thân, bè bạn bên cạnh sẽ vui, mà không có cũng chẳng sao. Tri túc ở tuổi già, chị cảm thấy bình yên, hạnh phúc…
 
Câu chuyện giữa hai chị em kết thúc lúc buổi chiều nhá nhem tối. Tôi lái xe ra về, lòng cảm thấy vui. Là một người mê giọng hát Khánh Ly, thuở bé đã từng mơ ước được một lần được nhìn, được nghe Khánh Ly hát trên sân khấu. Sang đến Mỹ, từng mong có dịp đệm guitar cho chị hát Ca Khúc Da Vàng. Đến nay, những điều này đều đã làm được. Và hôm nay, tôi còn được ngồi với chị, nghe chị kể chuyện buồn vui cuộc đời. Hai chị em cùng ngắm lại những bức ảnh anh Trần Đại Lộc chụp chị từ hồi trước 1975, nhắc lại những câu chuyện về người bạn chung hiền lành, chân tình này. Chị như còn nhắn nhủ với tôi một điều: có những thứ còn tồn tại lâu hơn cả một giọng hát huyền thoại. Đó là tình bằng hữu, là tấm lòng yêu thương nhân ái. Như câu hát chị đã từng nhiều lần ngân nga:

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì, em biết không?
Để gió cuốn đi…
 
Doãn Hưng
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian là thực phẩm dài hạn cho người sống. Không thể từ chối. Hoặc chúng ta hưởng thụ nó. Hoặc chúng ta chịu đựng nó. Món ăn này đôi lúc sung sướng để nhai. Đôi lúc mệt mỏi, phiền hà để gặm. Đôi lúc nuốt xuống mắc nghẹn. Đôi lúc nuốt không kịp thở. Đã làm người thì nhất định phải biết sử dụng thời gian. Nếu ai không biết, thì thời gian sẽ sử dụng người đó.
Nghe danh nhà văn Khánh Trường đã lâu, biết ông là họa sĩ, điều đầu tiên tôi đi tìm là cái nhìn của người họa sĩ trong tập Truyện ngắn Khánh Trường I. Ông có những đoạn văn tả cảnh đầy màu sắc. “Bầu trời ửng sáng. Nắng rải xuống mặt đất màu vàng dịu. Nắng làm cho màu đỏ tấm pano quảng cáo trên mặt tường ngôi nhà bên kia đường hực lên rực rỡ, khiến thân thể trần truồng một trăm phần trăm của thiếu nữ nằm tênh hênh suốt chiều ngang tấm pano trở nên mời mọc quyến rũ hơn.”
Một tác phẩm Nghệ thuật Khái niệm gồm một quả chuối đơn giản, được dán bằng băng keo lên tường, đã được bán với giá 6,2 triệu đô-la tại một cuộc đấu giá ở New York vào thứ Tư, 20 tháng 11 năm 2024. Sự kiện này đã gây xôn xao không ít chẳng những trong thế giới nghệ thuật mà cả dư luận công chúng bên ngoài. Tác phẩm với nhan đề Comedian/ Diễn viên hài, của nghệ sĩ người Ý Maurizio Cattelan, đã trở thành một hiện tượng khi ra mắt vào năm 2019 tại Art Basel Miami Beach. Những người tham dự lễ hội nghệ thuật này cố gắng tìm hiểu xem liệu một quả chuối màu vàng đã chín có những đốm đen được dán trên bức tường trắng bằng băng keo bạc loại dán thùng gửi hàng là một trò đùa hay là lời bình luận đầy thách thức láo xược về các tiêu chuẩn đáng ngờ trong giới sưu tập nghệ thuật. Có lúc, một nghệ sĩ khác đã lấy quả chuối ra khỏi bức tường và điềm nhiên bóc vỏ ra ăn. Tác phẩm này thu hút quá nhiều sự chú ý đến mức ban tổ chức phải lấy nó xuống cất đi.
Ngày Lễ Tạ Ơn ở Mỹ (Thanksgiving Day, ngày Thứ Năm trong tuần lễ thứ tư của tháng 11 hàng năm) được cho là khởi đầu vào năm 1621 khi những người di cư đầu tiên từ Anh Quốc đến Bắc Mỹ tạ ơn và ăn mừng với người Mỹ Da Đỏ bản xứ về một vụ mùa màng được thu hoạch khấm khá. Đây cũng là dịp để chúng ta nghĩ đến và đền đáp phần nào những ơn nghĩa mà mình đã nhận được trong cuộc đời này. Trong bài thơ “Ta Về” của nhà thơ Tô Thùy Yên viết khi ra tù cộng sản sau cuộc đổi đời vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, có câu thơ mà tôi rất thích: “Cảm ơn hoa đã vì ta nở.” Hoa nở rồi hoa tàn là chuyện rất bình thường theo luật tắc sinh trụ hoại diệt của vạn vật, như nhà Phật đã nói. Hoa có biết nó nở vì ai không? Làm sao chúng ta biết được hoa nở là vì chúng ta? Nhưng nếu không có hoa nở thì làm sao nhà thơ họ Tô kia có thể chiêm ngưỡng được vẻ đẹp mỹ miều của thiên nhiên! Vì vậy mà khi nhìn đóa hoa nở nhà thơ Tô Thùy Yên đã nói lời cảm ơn vì cảm nhận rằng hoa đã vì ông nở.
Trong thế hệ ca nhạc sĩ trẻ của nền âm nhạc Sài Gòn trước 1975, cặp uyên ương Lê Uyên - Phương có một chỗ đứng đặc biệt, độc nhất. Sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Phương kéo dài từ đầu thập niên 1970s ở Miền Nam sang đến tận Hoa Kỳ sau 1975, cho đến khi ông mất vào năm 1999. Nhiều ca khúc Lê Uyên Phương cho đến nay vẫn chưa được chính thức phổ biến, phát hành. Để tưởng nhớ 25 năm ngày mất của người nhạc sĩ tài hoa, ca sĩ Lê Uyên sẽ tổ chức đêm nhạc chủ đề “Lê Uyên Phương 25 Năm Cuộc Đời– Tình Yêu – Âm Nhạc” tại Saigon Grand Center thành phố Fountain Valley vào ngày 7 tháng 12 2024.
Nhà thơ Kiên Giang nổi tiếng trên thi đàn miền Nam từ những năm 1955, 1956 với bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím” (được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc rất nổi tiếng)
Bài thơ này đăng trên Việt Báo vào ngày 10 tháng 8 2024. Người dịch nói rằng “…Bài này hợp với tinh thần Phật Giáo…” Tác giả Henry Wadsworth Longfellow là một nhà thơ nổi tiếng vào bậc nhất ở Mỹ trong thế kỷ 19. Trong tiểu sử không thấy nhắc ông có nghiên cứu về Phật Giáo. Có thể giải thích rằng những gì thuộc về chân lý, sự thật thì sẽ mãi mãi tồn tại, bất kể Đức Phật có thuyết giảng hay không.
VFF đang cùng cộng đồng hướng đến một sự kiện trọng đại: kỷ niệm 50 năm tị nạn kể từ biến cố 30-04-1975. Không phải tình cờ khi nhiều phim đoạt giải năm nay có chủ đề liên quan đến sự hòa giải giữa các thế hệ sau nửa thế kỷ ly hương.
Năm 1816, khi nhà phát minh người Pháp, Joseph Nicephore Niepce thành công chế tạo ra chiếc máy ảnh bằng gỗ có gắn thấu kính, cũng là lúc nghề vẽ tranh truyền thần của những họa sĩ thời đó bắt đầu gặp nguy hiểm. Đến khi công nghệ chụp ảnh hoàn hảo hơn ra đời vào khoảng 1839, thì những người vẽ tranh chân dung dần dần… thất nghiệp.
Tuy than thở như vậy nhưng Nguyễn Vỹ theo cái nghiệp trong suốt bốn thập niên. Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở quê, lên trung học Pháp-Việt ở Quy Nhơn (1924-1927), tham gia bãi khóa để tang nhà cách mạng Phan Châu Trinh nên bị đuổi học, phải ra Hà Nội học tiếp. Sau khi đậu tú tài toàn phần, Nguyễn Vỹ dạy học tại trường trung học Thăng Long, Hà Nội. Vừa dạy học, vừa làm thơ, viết văn, viết báo... Nguyễn Vỹ là tên thật, các bút hiệu khác: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền. Cuộc đời ông trải qua nhiều sóng gió và nghiệt ngã nhất với nghề báo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.