Hôm nay,  

Sinh Y Học Trong Tuần:Ung Thư Máu, Khó Thở...

9/17/201100:00:00(View: 9559)

Sinh Y Học Trong Tuần:Ung Thư Máu, Khó Thở...

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô

Những yếu tố tăng trưởng tế bào ung thư máu. Tương tác giữa Choline kinase alpha, epidermal growth factor receptor và c-Src trong việc tăng trưởng tế bào ung thư máu Bs Yataka Shima và Bs Issay Kitabayashi vừa phổ biến kết quả tham khảo đăng trong báo International J of Hematology, 94: 134, 2011.

Theo các nhà nghiên cứu này thì thay đổi vi trí một vài nhiễm sắc thể đặc biệt và đột biến có liên hệ tới ung thư máu bạch huyết cấp tính (acute myeloblastic leukemia, AML). Một số di thể như AML1, C/EBPa, RARa, MOZ, p300/CBP, and MLL có liên hệ quan trọng tới việc điều chỉnh ung thư máu hematopoiesis. Kết quả gây nên những phản ứng fusion hay đột biến những chất bạch đản đã làm thay đổi phiên mã di thể, làm rối loạn hiện tượng sinh sản máu Các tác giả nghiên cứu những yếu tố phiên mã và hiện tượng cộng hoạt hoá đóng vai trò quan trọng trong việc sinh sản hồng huyết cầu và bạch huyết cầu. Choline kinase là một loại men xúc tác choline theo đường hoá học phosphatidylcholine (PC) biosynthesis. Epidermal growth factor receptor (EGFR; ErbB-1; HER1 trong cơ thể con người) là một thụ thể nằm ngoài màng tế bào.

Ung thư bạch cầu cấp tính (Acute myeloblastic leukemia, AML) thường thấy nơi bệnh nhân tuổi 60 và tỉ lệ tăng cao khi lớn tuổi hơn. Những triệu chứng ngắn thường thấy như mệt mỏi, nóng, và chảy máu. Giảm tế bào máu. Hơn 20% tế bào mầm thấy trong tủy xương. Khoảng 90% bệnh nhân có tế bào mầm trong máu. Dấu ấn sinh học Midreprohormone adrenomedullin (MR-proADM) thử nghiệm chứng khó thở.

Yếu tố sinh học bệnh nhân khó thở. Chuyên gia Dorothy Caputo vừa phổ biến trong báo J. Amer College of Cardiology, 58: 1057, 2011, ngày 30 tháng Tám, 2011, nói về vài trò của dấu ấn sinh học MR-proADM dùng thử nghiệm tiên đoán chứng khó thở cho bệnh nhân. Có thể coi đây là một dấu ấn sinh học hiệu nghiệm trong việc tiên đoán tử vong bệnh nhân bị chứng nghẹt thở cấp tinh.

Biomarker MR-proADM dùng để thử nghiệm cho bệnh nhân bị khó thở mà 1/3 là do bệnh suy tim cấp tính. Ngoài ra, chứng khó thở có thể do bệnh nghẹt thở kinh niên (COPD), suyễn (Asthma), viêm sưng phổi (Pneumonia), và tim đập thất nhịp.

Trước đây các chuyên gia đã từng thử nghiệm Adrenomedullin (ADM) chuẩn đoán bệnh nghẹt thở dưạ theo đặc tính của ADM là một loại peptide có thể làm nở mạch máu và hạ huyết áp xuống thấp. Tuy nhiên đã gặp khó khăn khi dùng chất Adrenomedullin này trong việc chuẩn đoán bệnh khó thở, vì Adrenomedullin không có tính chất sinh học nên khó thử nghiệm áp dụng trong y khoa lâm sàng.

Bởi vậy sau này các chuyên gia đã để ý tới MR-ProAMD vì chất này có đặc tính như một loại kích thích tố (Hormone). Ts Nils G. Morgenthaler và các đồng nghiệp đã thực hiện được việc thử nghiệm đo lường chất Midregional pro-ADM (MR-proADM) và kết quả đã phổ biến trong báo Endocrinology and Metabolism, 51: 1823, 2005.

Lượng thuốc cao Celexa gây nguy cơ tim đập thất nhịp. Ngày 8/24/2011, FDA thông tin vấn đề an toàn của Thuốc Celexa (Citalopram hydromide) khi dùng liều lượng cao thuốc này có thể làm thay đổi nhịp tim. Theo FDA thì không nên dùng Celexa liều lượng cao hơn 4mg một ngày vì thuốc này có thể làm thay đổi tình trạng điện trong tim. Liều cao thuốc Celexa làm thay đổi dòng điện trong tim, kéo dài QT trong điện tâm đồ EKG đưa tới tim đập thất nhịp, rối loạn nhịp tim, do đó có thể nguy hiểm đến tính mang. Thuốc Celexa (Citalopram hydromide) là loại thuốc chữa bệnh trầm cảm gọi là Selective reuptake inhibitors (SSRIs). Citalopram làm cho QT kéo dài. Bệnh nhân không được dùng Citalopram quá liều lượng 40 mg một ngày. Bởi vậy bệnh nhân có tật bẩm sinh ST kéo dài cũng không dùng Citalopram. Trường hợp bệnh nhân suy tim, tim đập chậm thất nhịp hay có chất kali thấp trong máu (hypokalemia) hay chất magnéium thấp trong máu (hypomagnesemia) vì thuốc Citalopram trong những trường hợp bệnh kể trên dễ sinh chứng Torsade de Pointes.

Theo FDA thì cả bác sĩ lẫn bệnh nhân đều phải vào FDA đọc thêm để tìm hiểu rõ ràng trước khi dùng thuốc này. Cả bệnh nhân lẫn bác sĩ đều phải tường trình biến chứng với FDA khi dùng thuốc này. www.fda.gov/Med Watch/report. htm.

Azithromycine và Bệnh Nghẹt Phổi Kinh Niên (COPD). Bs Richard K Albert và các cộng sự viên vừa phổ biến trong báo New Eng J. Med ngày 25 tháng 8, 2011, cho biết thuốc Azithromycine có khả năng ngừa bệnh Nghẹt Phổi Kinh Niên (COPD) đỡ bị tái phát thường xuyên hơn. Thử nghiệm cho một số bệnh nhân bị nghẹt phổi kinh niên uống mỗi ngày một viên Azithromycine, thêm vào những thuốc khác cho bệnh nhân uống trị bệnh nghẹt thở kinh niên, thì thấy tình trạng tái phát bệnh COPD thuyên giảm. Phẩm chất đời sống bệnh nhân tốt hơn. Tuy có một số nhỏ bênh nhân bị chứng lãng tai. Các tác giả e ngại vấn đề quen thuốc trụ sinh. Ngoài ra cũng cần phải lưu ý những công phạt khi dùng thuốc Azithromycine. Trong báo Int J Chron Obstruct Pulm Dis, Dec 2008, Bs Aaron P Milstone cho biết bình thường điều trị bệnh COPD bao gồm việc giữ vệ sinh cho phổi, uống thuốc nở cuống phổi, và uống thuốc trụ sinh. Trong những năm gần đây thời gian dùng thuốc trụ sinh để chữa COPD càng ngày càng ngắn hơn. Bs Milston đã nghiên cứu dùng thuốc Azithromycine chữa COPD trong 3 thời gian khác khác nhau: 1 ngày, 3 ngày và 5 ngày. Theo Bs Milstone thì tăng lượng thuốc trụ sinh trong thời gian điều trị ngắn hạn có hy vọng giảm nguy cơ kháng thuốc trụ sinh. Nhưng vẫn cần thêm nhiều nghiên cứu để làm sáng tỏ vấn đề.

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô,

(Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, Một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Mỗi ngày, cơ thể chúng ta đều đối mặt với rất nhiều kẻ xâm nhập tiềm ẩn, đặc biệt là trong mùa lạnh và ở những vùng khí hậu lạnh. Những vi sinh vật này, được gọi là các tác nhân gây bệnh (hay mầm bệnh), xuất hiện dưới nhiều hình thức như vi-rút, vi khuẩn, ký sinh trùng và nấm. Hệ thống miễn dịch của cơ thể thiết lập nhiều tuyến phòng thủ để chống lại chúng. Và đây là cách hệ thống đa tầng này hoạt động.
Vào ngày Chủ Nhật 7 tháng 12 2023, tại Trung Tâm Thực Hành Chánh Niệm Nam Cali (MPC), Tiến Sĩ Giáo Dục Bạch Xuân Phẻ đã có buổi chia sẻ về cách hướng dẫn cho các em tuổi teen thực hành chánh niệm. Cùng tham dự buổi chia sẻ còn có chị Chơn Nguyên, y tá của Học Khu Centralia (Buena Park), huynh trưởng Gia Đình Phật Tử, nhiều bậc phụ huynh có con em đang ở tuổi teen, tăng thân Xóm Dừa, Nụ Hồng…
Thuốc diệt siêu vi (Antiviral drugs) thường được coi là một phát minh của thế kỷ 20. Nhưng một nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra một điều bất ngờ trong hệ thống miễn dịch của chúng ta: Nó có thể tự mình tổng hợp các phân tử diệt siêu vi (antiviral) để phản ứng chống lại sự lây nhiễm của vi rút. Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu về một loại protein tạo ra các phân tử diệt siêu vi tự nhiên. Khác xa với phát minh hiện đại của nhân loại, tự nhiên đã tiến hóa các tế bào tiến hóa để tạo ra “loại thuốc” của riêng chúng – biện pháp phòng vệ xa xưa nhất để chống lại virus.
Trí tuệ nhân tạo / AI (Artificial Intelligence) gần đây được nhắc đến rất nhiều không những trong giới công nghệ máy tính mà cả trong các môi trường chính trị, kinh tế, xã hội vì tác dụng tiềm năng của nó trên mọi lãnh vực của đời sống con người. Riêng trong lãnh vực y học, AI đã và đang có những bước tiến đáng kể. AI đang được sử dụng để cải thiện kết quả của bệnh nhân, giảm chi phí và tăng hiệu quả trong chăm sóc sức khỏe, có khả năng cách mạng hóa y học bằng cách cung cấp các chẩn đoán chính xác hơn, kế hoạch điều trị cá nhân hóa và cải thiện việc chăm sóc bệnh nhân.
Cũng giống như một cuốn từ điển vật lý, ‘cuốn từ điển’ trong đầu của chúng ta cũng chứa thông tin về các từ, bao gồm các chữ cái, âm thanh và ý nghĩa hoặc ngữ nghĩa của từ, cũng như thông tin về các thành phần câu cú và cách ghép các từ lại với nhau để tạo thành các câu đúng ngữ pháp. ‘Cuốn từ điển’ đó còn là một cuốn từ điển các từ ngữ đồng nghĩa. Nó có thể giúp chúng ta kết nối các từ ngữ và xem chúng giống nhau về ý nghĩa, âm thanh hoặc chính tả như thế nào.
Vừa mới mua một thùng raspberry hôm qua, mà hôm nay chúng bắt đầu trông hơi…mốc lên rồi. Mà mang bỏ hết thì tiếc đứt ruột – hay là chỉ lấy những trái bị mốc bỏ ra là được? Không ít người sẽ quyết định như vậy. Tưởng chừng như vô hại, nhưng nấm mốc trên thực phẩm có thể gây ra nhiều vấn đề, từ chứng khó tiêu cho đến những tình huống nghiêm trọng nhất như tổn thương thận hoặc thậm chí là ung thư.
Các cơ quan y tế Trung Quốc tuần qua cho biết họ chưa phát hiện bất kỳ mầm bệnh bất thường hoặc chủng vi-rút mới nào sau khi Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) yêu cầu cung cấp thông tin về các đợt bùng phát bịnh hô hấp. WHO đã yêu cầu Trung Quốc cung cấp thêm thông tin chi tiết sau khi các tổ chức như Program for Monitoring Emerging Diseases (ProMED) báo cáo về các trường hợp viêm phổi chưa được chẩn đoán ở trẻ em ở miền bắc Trung Quốc.
Nghệ (turmeric) là một loài thực vật có hoa thuộc họ gừng. Từ lâu, nghệ đã được đánh giá cao trong nền y khoa cổ Ayurvedic ở Ấn Độ nhờ đặc tính chống viêm. Với ẩm thực Châu Á, nghệ cũng được ưa thích bởi hương vị và màu sắc của nó. Trong tiếng Hindi, nghệ được gọi là Haldi, có nguồn gốc từ tiếng Phạn có nghĩa là “màu vàng.” Nhưng đối với hàng triệu người Nam Á thường xuyên sử dụng nghệ, màu vàng rực rỡ của nghệ có thể khiến họ mất mạng.
Thời gian Mở Ghi Danh Medicare (Open Enrollment) đang diễn ra. Chúng tôi đã chọn một số câu hỏi về chủ đề này và muốn chia sẻ thông tin trong chuyên mục của tháng này. Chúng tôi đã thêm một câu hỏi để giải quyết rõ ràng hơn những lĩnh vực mà nhiều người còn nhầm lẫn về vắc xin ngừa COVID-19. Nếu quý vị có thêm câu hỏi về Medicare, Medicaid, thị trường bảo hiểm Y tế theo đạo luật chăm sóc giá cả phải chăng, phúc lợi hưu trí an sinh xã hội, thu nhập an sinh bổ sung hoặc tiêm chủng ngừa COVID/cúm, quý vị có thể liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay bằng 3 cách:
Mua thuốc bậy bạ không nguồn gốc là một trò xui rủi. Từ Xanax đến cocaine, thuốc hoặc thuốc giả được mua ở những nơi không phải cơ sở y tế có thể chứa liều lượng fentanyl nguy hiểm cho tính mạng. Các bác sĩ đã chứng kiến sự gia tăng sử dụng fentanyl không cố ý từ những người mua các loại thuốc theo toa thuộc nhóm opioid và các loại thuốc khác có chứa hoặc pha, trộn fentanyl. Người ta nhận thấy Fentanyl đã được đưa vào nguồn cung cấp thuốc heroin ở Massachusetts. Vào năm 2016, Giáo sư Kavita Babu và các đồng nghiệp phát hiện ra rằng những bệnh nhân đến khoa cấp cứu với báo cáo sử dụng quá liều heroin thường có fentanyl trong kết quả xét nghiệm mẫu thuốc của họ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.