Hôm nay,  

Sinh Y Học Trong Tuần:Ung Thư Máu, Khó Thở...

17/09/201100:00:00(Xem: 9562)

Sinh Y Học Trong Tuần:Ung Thư Máu, Khó Thở...

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô

Những yếu tố tăng trưởng tế bào ung thư máu. Tương tác giữa Choline kinase alpha, epidermal growth factor receptor và c-Src trong việc tăng trưởng tế bào ung thư máu Bs Yataka Shima và Bs Issay Kitabayashi vừa phổ biến kết quả tham khảo đăng trong báo International J of Hematology, 94: 134, 2011.

Theo các nhà nghiên cứu này thì thay đổi vi trí một vài nhiễm sắc thể đặc biệt và đột biến có liên hệ tới ung thư máu bạch huyết cấp tính (acute myeloblastic leukemia, AML). Một số di thể như AML1, C/EBPa, RARa, MOZ, p300/CBP, and MLL có liên hệ quan trọng tới việc điều chỉnh ung thư máu hematopoiesis. Kết quả gây nên những phản ứng fusion hay đột biến những chất bạch đản đã làm thay đổi phiên mã di thể, làm rối loạn hiện tượng sinh sản máu Các tác giả nghiên cứu những yếu tố phiên mã và hiện tượng cộng hoạt hoá đóng vai trò quan trọng trong việc sinh sản hồng huyết cầu và bạch huyết cầu. Choline kinase là một loại men xúc tác choline theo đường hoá học phosphatidylcholine (PC) biosynthesis. Epidermal growth factor receptor (EGFR; ErbB-1; HER1 trong cơ thể con người) là một thụ thể nằm ngoài màng tế bào.

Ung thư bạch cầu cấp tính (Acute myeloblastic leukemia, AML) thường thấy nơi bệnh nhân tuổi 60 và tỉ lệ tăng cao khi lớn tuổi hơn. Những triệu chứng ngắn thường thấy như mệt mỏi, nóng, và chảy máu. Giảm tế bào máu. Hơn 20% tế bào mầm thấy trong tủy xương. Khoảng 90% bệnh nhân có tế bào mầm trong máu. Dấu ấn sinh học Midreprohormone adrenomedullin (MR-proADM) thử nghiệm chứng khó thở.

Yếu tố sinh học bệnh nhân khó thở. Chuyên gia Dorothy Caputo vừa phổ biến trong báo J. Amer College of Cardiology, 58: 1057, 2011, ngày 30 tháng Tám, 2011, nói về vài trò của dấu ấn sinh học MR-proADM dùng thử nghiệm tiên đoán chứng khó thở cho bệnh nhân. Có thể coi đây là một dấu ấn sinh học hiệu nghiệm trong việc tiên đoán tử vong bệnh nhân bị chứng nghẹt thở cấp tinh.

Biomarker MR-proADM dùng để thử nghiệm cho bệnh nhân bị khó thở mà 1/3 là do bệnh suy tim cấp tính. Ngoài ra, chứng khó thở có thể do bệnh nghẹt thở kinh niên (COPD), suyễn (Asthma), viêm sưng phổi (Pneumonia), và tim đập thất nhịp.

Trước đây các chuyên gia đã từng thử nghiệm Adrenomedullin (ADM) chuẩn đoán bệnh nghẹt thở dưạ theo đặc tính của ADM là một loại peptide có thể làm nở mạch máu và hạ huyết áp xuống thấp. Tuy nhiên đã gặp khó khăn khi dùng chất Adrenomedullin này trong việc chuẩn đoán bệnh khó thở, vì Adrenomedullin không có tính chất sinh học nên khó thử nghiệm áp dụng trong y khoa lâm sàng.

Bởi vậy sau này các chuyên gia đã để ý tới MR-ProAMD vì chất này có đặc tính như một loại kích thích tố (Hormone). Ts Nils G. Morgenthaler và các đồng nghiệp đã thực hiện được việc thử nghiệm đo lường chất Midregional pro-ADM (MR-proADM) và kết quả đã phổ biến trong báo Endocrinology and Metabolism, 51: 1823, 2005.

Lượng thuốc cao Celexa gây nguy cơ tim đập thất nhịp. Ngày 8/24/2011, FDA thông tin vấn đề an toàn của Thuốc Celexa (Citalopram hydromide) khi dùng liều lượng cao thuốc này có thể làm thay đổi nhịp tim. Theo FDA thì không nên dùng Celexa liều lượng cao hơn 4mg một ngày vì thuốc này có thể làm thay đổi tình trạng điện trong tim. Liều cao thuốc Celexa làm thay đổi dòng điện trong tim, kéo dài QT trong điện tâm đồ EKG đưa tới tim đập thất nhịp, rối loạn nhịp tim, do đó có thể nguy hiểm đến tính mang. Thuốc Celexa (Citalopram hydromide) là loại thuốc chữa bệnh trầm cảm gọi là Selective reuptake inhibitors (SSRIs). Citalopram làm cho QT kéo dài. Bệnh nhân không được dùng Citalopram quá liều lượng 40 mg một ngày. Bởi vậy bệnh nhân có tật bẩm sinh ST kéo dài cũng không dùng Citalopram. Trường hợp bệnh nhân suy tim, tim đập chậm thất nhịp hay có chất kali thấp trong máu (hypokalemia) hay chất magnéium thấp trong máu (hypomagnesemia) vì thuốc Citalopram trong những trường hợp bệnh kể trên dễ sinh chứng Torsade de Pointes.

Theo FDA thì cả bác sĩ lẫn bệnh nhân đều phải vào FDA đọc thêm để tìm hiểu rõ ràng trước khi dùng thuốc này. Cả bệnh nhân lẫn bác sĩ đều phải tường trình biến chứng với FDA khi dùng thuốc này. www.fda.gov/Med Watch/report. htm.

Azithromycine và Bệnh Nghẹt Phổi Kinh Niên (COPD). Bs Richard K Albert và các cộng sự viên vừa phổ biến trong báo New Eng J. Med ngày 25 tháng 8, 2011, cho biết thuốc Azithromycine có khả năng ngừa bệnh Nghẹt Phổi Kinh Niên (COPD) đỡ bị tái phát thường xuyên hơn. Thử nghiệm cho một số bệnh nhân bị nghẹt phổi kinh niên uống mỗi ngày một viên Azithromycine, thêm vào những thuốc khác cho bệnh nhân uống trị bệnh nghẹt thở kinh niên, thì thấy tình trạng tái phát bệnh COPD thuyên giảm. Phẩm chất đời sống bệnh nhân tốt hơn. Tuy có một số nhỏ bênh nhân bị chứng lãng tai. Các tác giả e ngại vấn đề quen thuốc trụ sinh. Ngoài ra cũng cần phải lưu ý những công phạt khi dùng thuốc Azithromycine. Trong báo Int J Chron Obstruct Pulm Dis, Dec 2008, Bs Aaron P Milstone cho biết bình thường điều trị bệnh COPD bao gồm việc giữ vệ sinh cho phổi, uống thuốc nở cuống phổi, và uống thuốc trụ sinh. Trong những năm gần đây thời gian dùng thuốc trụ sinh để chữa COPD càng ngày càng ngắn hơn. Bs Milston đã nghiên cứu dùng thuốc Azithromycine chữa COPD trong 3 thời gian khác khác nhau: 1 ngày, 3 ngày và 5 ngày. Theo Bs Milstone thì tăng lượng thuốc trụ sinh trong thời gian điều trị ngắn hạn có hy vọng giảm nguy cơ kháng thuốc trụ sinh. Nhưng vẫn cần thêm nhiều nghiên cứu để làm sáng tỏ vấn đề.

Bác sĩ Trần Mạnh Ngô,

(Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, Một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày nay, có nhiều người lớn hơn bao giờ hết đang phải đối mặt với chứng rối loạn khả năng tập trung- thiếu khả năng chú ý, hay ADHD. Người ta nghi ngờ nguyên nhân chính của vấn đề này là do công nghệ hiện đại đang gây áp lực lên não bộ của họ. Trong khi có gần 10% trẻ em được chẩn đoán mắc chứng ADHD, một phân tích tổng hợp gần đây từ nhiều nghiên cứu cho thấy gần 6.8% người lớn mắc chứng ADHD – tăng từ 4.4% vào năm 2003.
Bộ não của chúng ta thường có khuynh hướng tìm kiếm và phản ứng với những điều mang lại sự hài lòng, gọi là phần thưởng. Khi chúng ta đói, bộ não hiểu rằng thức ăn là một phần thưởng, còn khi ta khát, nước sẽ là phần thưởng. Nhưng lạm dụng các chất gây nghiện như rượu và các loại thuốc có thể ảnh hưởng đến các con đường tìm kiếm phần thưởng tự nhiên trong bộ não, tạo ra những ham muốn khó kiểm soát và làm giảm khả năng kiểm soát hành vi của chúng ta.
Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học. Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen. Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.
Sau mùa lễ cuối năm là lúc các bậc phụ huynh lo lắng về con đường đại học của con cháu mình. Những con số điểm, những chữ viết tắt như GPA, SAT và ACT sẽ làm phụ huynh nhức đầu và chúng ta sẽ bàn lại về vai trò các điểm này và nhất là tương quan giữa SAT và IQ trong khung cảnh của các thay đổi gần đây ở Mỹ. Năm ngoái, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ quyết định cấm dùng màu da, nguồn gốc sắc tộc để quyết định tuyển chọn một ứng viên, từ chối không cho Đại học Harvard thực hành “tác dụng khẳng định” (affirmative action) để tăng sỉ số da màu không được đại diện đúng mức so với tỷ lệ trong dân số nói chung. Một trong những biện pháp được dùng để giảm bớt sỉ số dân Á Châu là gạt bỏ kết quả kỳ thi SAT hoặc giảm bớt tầm quan trọng của SAT, vì người gốc Á Châu có điểm SAT cao hơn nhiều so với các sắc dân khác.
Hội chứng người cứng đơ (Stiff Person Syndrome – SPS) là một căn bịnh có thể gây co thắt dữ dội và làm suy nhược các cơ, nhưng hầu hết mọi người đều không biết gì về nó mãi cho đến cuối năm ngoái, khi nữ danh ca Celine Dion công bố tình trạng bịnh của mình. Chứng rối loạn thần kinh và tự miễn dịch hiếm gặp này được cho là chỉ ảnh hưởng đến 1 hoặc 2 người trong một triệu người – và hai phần ba trong số những người bị là phụ nữ.
Tạp chí Consumer Reports vừa công bố phát hiện rằng nhựa vẫn hiện diện “rộng rãi” trong thực phẩm bất chấp các nguy hại về sức khỏe, và kêu gọi các cơ quan chức trách đánh giá lại mức độ an toàn của nhựa khi tiếp xúc với thực phẩm trong quá trình sản xuất. Tổ chức vô vụ lợi này cho biết rằng 84 trong số 85 mẫu thực phẩm ở siêu thị và thức ăn nhanh mà họ vừa kiểm tra gần đây có chứa “chất hóa dẻo” (plasticizers) được gọi là phthalates, một loại hóa chất được sử dụng để làm cho nhựa bền hơn.
Cách đâu 30-40 năm, lúc người tỵ nạn Việt mới định cư ở Mỹ và bắt đầu làm quen với các tập tục kể những tập quán về y tế ở Mỹ, trong y giới Mỹ cũng như các nước tây phương khác đang tranh cãi rất nhiều về chỉ định có nên cắt bao quy đầu theo thông lệ (routine circumcision) cho trẻ em sơ sinh hay không. Thuật ngữ “circumcision”, gốc latinh “circumcisio”. Từ "cắt bao quy đầu" xuất phát từ các từ Latin circum và caedo (circum: “xung quanh”; caedo: “tôi cắt”), có nghĩa đen là "cắt xung quanh". Từ epitome trong tiếng Hy Lạp cũng có nguồn gốc từ gốc có nghĩa là "cắt" hoặc "vết mổ". Trong tiếng Hebrew (Do Thái), phép cắt bao quy đầu được gọi là “peritomy”, xuất phát từ tiếng Hy Lạp peritomy.
Người ta vẫn thường nói “You are what you eat” (Những gì bạn ăn thể hiện bạn là ai). Nhưng có lẽ sẽ đúng hơn khi nói rằng những gì chúng ta ăn sẽ khiến chúng ta có những cảm xúc gì, bởi vì những tiến bộ trong lĩnh vực dinh dưỡng tâm thần học cho thấy chế độ dinh dưỡng đóng một vai trò quan trọng đối với sức khỏe tâm thần của chúng ta.
Đặng Đình Bách: Tấm gương sáng về tinh thần đoàn kết cộng đồng và câu chuyện đau buồn về sự bất công cần phải khắc phục tại Việt Nam...
Việc thuốc trị béo phì Zepbound mới được thông qua đã bổ sung thêm lựa chọn cho các loại thuốc giúp giảm cân, nhưng nó cũng đi kèm với những thách thức về chi phí và khả năng tiếp cận, giống như các loại thuốc giảm cân khác trong cùng nhóm. Các loại thuốc trong nhóm này gồm chất chủ vận (agonists), hay chất bắt chước các hormone tự nhiên trong ruột có ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất của cơ thể và tín hiệu đói phát ra từ não. Nhưng các loại thuốc đã được chuẩn thuận, các phiên bản tổng hợp của các hormone này, là những phân tử có kích thước lớn nên quá trình sản xuất khá tốn kém và mất thời gian. Điều này khiến cho thuốc có giá cả đắt đỏ và ngày càng khan hiếm
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.