Hôm nay,  

Lướt qua “Hành Trình Phù Sa”

28/02/202409:12:00(Xem: 2559)
20240225_091314

Đây là tập sách tranh song ngữ Anh-Việt của họa sĩ Lê Triều Điển. Xuyên suốt quyển sách là quá trình sống, học hành, sáng tác và bao nhiêu kỷ niệm từ thơ ấu cho đến ngày hôm nay. Đọc qua tập sách tôi thấy họa sĩ đã chọn tên sách có ý nghĩa rất hay, đầy hình tượng, thanh âm và sắc màu. Cuộc đời nhiều chìm nổi lênh đênh của người họa sĩ y hệt như những dòng sông mang nặng phù sa của vùng đất phương Nam. Mở đầu tập sách tác giả viết: “Vết xước của quá khứ, vết cắt của thời gian xẻ dọc xẻ ngang trong cuộc đời phiêu bạt, lờ mờ như giấc mộng, nhạt nhòa của ký ức. Đôi khi tôi tự hỏi: Tôi là ai? Tôi đang ở đâu?”. Có lẽ câu hỏi này chẳng phải là câu hỏi riêng của một mình anh Lê Triều Điển, nó là câu hỏi của bao nhiêu con người trên thế gian này, là câu hỏi muôn đời. Người xưa cũng đã từng hỏi như thế, người nay đang tự hỏi và rồi người của mai sau cũng sẽ tiếp tục tự vấn. Những con người sinh ra ở thế gian này, nhất là những người nhạy cảm, những nghệ sĩ, những ai quan tâm đến thân phận con người đều hỏi câu hỏi này.
    Họa sĩ lê Triều Điển sanh ra và lớn lên ở vùng đất có những con sông chở nặng phù sa, những địa danh: Chợ Lách, vàm Xếp, vàm Măng Thít, Phú Phụng… tuổi thơ của anh và cũng như của tất cả người dân thời ấy quá cơ cực. Anh kể: “Hôm nay Tây ruồng bố miệt Cầu Kè bắt bớ, hãm hiếp, đốt nhà. Hôm sau Việt Minh trừ gian diệt ác, ám sát, đốt chợ, đốt đồn, giết thả trôi sông...” Phận người dân như con sâu cái kiến, khổ đau vì vận nước loạn lạc chiến tranh. Gia đình của họa sĩ cũng như những người dân khác lênh đênh chạy loạn liên tục. Thuở ấy anh học chữ ở một ngôi trường mà nơi ấy vốn là ngôi đình cổ. Sau đó học tiểu học ở Tân Giai, sau khi tốt nghiệp thì thi vào trường kỹ thuật Cao Thắng Sài Gòn. Ở đây anh đã học vẽ với thầy Thịnh Del (Mỹ thuật Paris), thầy U Văn An (Mỹ thuật Đông Dương), cô Trương Thị Thịnh (Mỹ thuật Gia Định)… Năng khiếu, chăm chỉ học tập, sáng tạo và sự hướng dẫn của các thầy cô là nền tảng để sau này đời có một người họa sĩ nổi tiếng: Lê Triều Điển. Anh viết: “ ...cái nhìn về nghệ thuật, sự sáng tạo, sự tìm kiếm của người nghệ sỹ trên con đường trở về bản ngã, trở về cội nguồn trong sâu thẳm của sự sáng tạo, của tâm hồn, chớ không chỉ là sự cần cù, khéo tay, góp phần hình thành trong tôi sự đam mê, dấn thân vào niềm yêu thương tuyệt đối trên hành trình nghệ thuật, một con đường không có điểm đến”. Anh nói đúng, hầu hết nghệ sĩ yêu nghệ thuật, sáng tạo không ngừng nghỉ và không bao giờ tự cho rằng mình đã đến đích. Cái đẹp của nghệ thuật vốn vô cùng, hành trình sáng tạo hay là hành trình đi tìm cái đẹp là một hành trình vô tận, một khi nghĩ mình đến đích thì kể như “chết” rồi! Hành trình nghệ thuật vĩnh viễn không có đích.
    Đất Việt hết chiến tranh với Pháp lại tiếp tục chiến tranh với Mỹ. Người Mỹ đổ vào miền Nam một lực lượng binh lính, cố vấn và khí tài vô cùng lớn. Chiến tranh lan rộng và tàn khốc, tất cả người dân miền Nam sống trong khổ đau, sợ hãi và tương lai mịt mù vô định. Lúc này anh rời trường Cao Thắng qua học trường Bách Khoa Phú Thọ và anh thú nhận: “ Nằm chung trong số phận những kẻ lừng khừng chán ghét chiến tranh”. Chiến tranh đang tàn phá quốc gia, gây bao đau thương thể xác và tâm hồn người. Mọi người lo sọ rối bời và mất phương hướng, trong hoàn cảnh này, họa sĩ dồn tâm trí: “Tôi vẽ, bôi xóa rồi lại vẽ, lại bôi xóa, hân hoan hào hứng với những sắc màu nhảy múa như những cơn lên đồng”. Chiến tranh leo thang càng lúc càng khốc liệt. Anh bị chuyển ra Đà Nẵng sau khi học xong khoá cơ khí không quân. Trong tình thế bế tắc, bi quan anh đã: “Tôi lao vào vẽ, vẽ để quên đi nỗi cô đơn, vẽ những nỗi buồn sâu kín trong tâm hồn, vẽ để tìm thấy chính mình, trở về với những đau khổ của một kiếp người, đón nhận từng khoảnh khắc cảm xúc của cuộc đời đang sống”.
    Lúc này những bức tranh anh vẽ đầy những vệt ngang dọc chằng chịt, tôi có cảm tưởng nhưng những đường lửa đạn kinh hoàng của chiến tranh. Những bức tranh với những hình nhân, mặt người cách điệu đang toát lên vẻ khủng bố tột độ. Có bức tranh đầy mắu sắc tím của hoa lục bình miền sông nước pha lẫn gam màu xánh xanh, ở giữa tranh là một khung chữ nhật màu đen với vô số vệt màu nhểu xuống… Phải chăng là cuộc đời bị “nhốt” trong đau khổ, tang tóc, chết chóc của chiến tranh?
    Những năm 1970, anh trở về Vĩnh Long mở quán cà phê thu hút nhiều nghệ sĩ, sinh viên, học sinh đến ủng hộ. Những nghệ sĩ địa phương cũng đến sum họp và sinh hoạt với nhau: Nguyễn Thế Đệ, Trần Mộng Hoàng, Nguyễn Sinh Từ… Quán cũng là nơi họp mặt thường xuyên của nhóm du ca Đoàn Xuân Kiên. Anh được nhiều bạn bè ủng hộ nên thực hiện giấc mơ mở phòng đọc sách, mua sách nghiên cứu lịch sử, mỹ thuật, văn học, bách khoa, sử địa….Phòng đọc sách hoạt động tốt gây ảnh hưởng tích cực và tỉnh trưởng tỉnh Vĩnh Long đã quyết định cho xây thư viện tại chợ Vĩnh Long.
    Sau 1975, những tưởng hòa bình và thống nhất thì quê hương sẽ an ổn và cường thịnh… Nào ngờ lại tiếp tục một hành trình bất định mới cũng không kém phần khổ đau, sợ hãi, bơ vơ, lạc lõng… Một bức tranh anh vẽ có nhiều quân cờ oxox bị vây trong những ô vuông, tròn hoặc ngoằn ngoèo không biết hình dạng gì. Có lẽ người họa sỷ gởi gắm tâm sự đời là những cuộc cờ, thắng thua bất định, tất cả những cuộc cờ hay cuộc chơi ấy vốn đã được định đoạt bởi những thế lực giấu mặt. Những quân cờ oxox hoàn toàn không quyền quyết định thắng thua cũng như quyền quyết định vận mệnh của mình.
    Về Cần Thơ, họa sỹ Lê Triều Điển cùng bạn bè thực hiện tập san văn nghệ và mở hội quán Quán Gió. Ở đây anh gặp nhà thơ Hồng Lĩnh, hai người yêu nhau và kết thành vợ chồng. Phải nói rằng đây là cặp vợ chồng nghệ sỹ đẹp, ăn ý, đồng lòng và chung tình rất mực. Một cặp đôi quý hiếm trong hội hoa, thơ ca của Việt Nam.
    Hội họa là tình yêu, là máu, là tất cả đối với anh. Hành Trình Phù Sa có đoạn: “ Hội họa đã thâm nhập âm thầm vào tâm hồn tôi từ rất lâu, nó như có sẵn trong máu thịt của tôi, cứ vẽ quẹt không chán nản, dù chẳng biết vẽ để làm gì, hình như đó là cách để tôi giãi bày với cuộc đời”.
    Sau 1975, tất cả lật nhào hết từ con người đến đạo đức, tâm hồn, đời sống vật chất, đời sống tinh thần… cái đói, khổ thường trực. Với người nghệ sĩ thì  sự kềm kẹp tư tưởng còn bức bách hơn. Sách có đoạn rằng: “ Sau những năm hoạt động nghệ thuật tự do giờ anh em họa sỹ phải chịu sự gò bó của cái gọi là thông qua phác thảo rồi mới được sáng tác nên anh em rất khó chịu bức bối”. Ở trang này có kèm một bức tranh hỗn loạn với bao nhiêu màu sắc và với những hình thù vô định, đường nét rối beng phải chăng là cái mớ bòng bong hỗn loạn của xã hội?
    Tranh của họa sỹ Lê Triều Điển thuộc trường phái lập thể hay trừu tượng, nó biểu tỏ cảm xúc nội tâm. Những mảng màu, những đường nét, những ký hiệu mang tính ước lệ rất khó hiểu, khó cảm nhận. Điều dễ thấy nhất là trên tranh của họa sỹ Lê Triều Điển đầy những vết ngang dọc chi chít, những hình tượng giống hệt chữ tượng hình, những biểu tượng của woodoo, những thể thức hình ảnh như người tiền sử vẽ trong các hang động... Dòng tranh của anh rất kén người xem vì nó không thuộc tính đại chúng, chỉ những người am hiểu nghệ thuật mới thích. Bản thân tôi cũng chẳng hiểu gì cả và cũng chẳng thích dòng tranh này. Tôi chỉ đoán mò và cảm nhận một cách chủ quan chứ thật sự không biết gì. Cái gu của tôi là những dòng tranh hay tượng điêu khắc thuộc trường phái tân cổ điển ( tiêu biểu như Bantoni Pampeo Jacques Louis David…) hoặc là dòng nghệ thuật của Michelangelo,Leonardo da Vinci, Claude Monet, Isaac Levitan...
    Sau thời kỳ bao cấp, xã dội dần mở cửa hội nhập trở lại với thế giới, tranh của anh được trưng bày ở Gallery Tự Do, được bán cho Blum Blossom. Giai đoạn này anh gởi tranh cho nhiều gallery nhưng phần nhiều bị chiếm dụng mất hết, chỉ có một vài chủ nhân tốt bụng mới trả tiền. Ngoài vẽ ra anh còn đi làm trang trí công trình cho nhiều đơn vị nhưng phần lớn bị quỵt tiền, bị nghiệm thu ăn chặn, cắt xén… gần hết. Họa Sỹ Lê Triều Điển còn là nghệ nhân làm gốm nặn tượng.Những tác phẩm đất nung của anh lần đầu tiên triễn lãm ở Gallery Xuân đường Võ Văn Tần. Họa sỹ Tú Duyên thích thú khen: “ Lần đầu tôi mới thấy đất có tiếng nói độc đáo như vậy”. Có lẽ anh đã dồn hết tâm hồn vào nặn tượng cũng như đã từng với vẽ tranh. Những cục đất sét vô tri qua bàn tay của anh đã trở nên sống động, biết biểu cảm, biết “nói”, biết thố lộ vì anh đã thổi hồn vào.
    Sau khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam, kinh tết dần dần khá hơn, các mối quan hệ giữa nghệ sĩ sáng tạo và người yêu nghệ thuật cũng tốt đẹp, nhiều nhà sưu tập tranh dám bỏ ra món tiền lớn để mua những bức tranh mà họ đánh giá cao. Nhờ tranh mà đời sống gia đình anh qua cơn khốn khó. Anh tâm sự: “Bán tranh tiếc đứt ruột vì tác phẩm giống như đứa con của mình sinh ra...” nhưng vẫn phải bán để sống còn, để tiếp tục duy trì sáng tạo, để tiếp tục cuộc hành trình vẽ. Lúc bấy giờ tranh của anh đượcc treo trang trọng ở đại sảnh khách sạn, resort, ở nhiều Gallery danh tiếng và được triễn lãm ở Singapore, Pháp….Tranh của anh màu sắc và đường nét khá ảm đạm, khắc khổ nó cứ như những suy tưởng và ý niệm cô đơn, lạc lõng của anh. Anh vẽ tranh hay nặn tượng gốm không đặt nặng về chủ đề tư tưởng. Tất cả tự nhiên như lưu xuất từ tâm hồn, đôi tay chỉ là công cụ truyền tải. Tôi đã một lần gặp anh ngoài đời, anh gầy gò, tóc cột đuôi gà… thường cười vui với mọi người nhưng tôi vẫn cảm nhận cái sự cô đơn lạc lõng của anh ở giữa cuộc đời. Anh có may mắm lớn là người bạn đời của anh, chị Hồng Lĩnh là một nhà thơ cũng vừa là một họa sỹ. Chị cũng yêu thích gốm, phải nói là cả hai tâm hồn đồng điệu rất mực yêu nghệ thuật. Chị Hồng Lĩnh xinh đẹp, hiền hậu, thủy chung, chịu thương chịu khó, gắn bó với anh suốt cả hành trình sống, hành trình sáng tạo nghệ thuật. Anh chị luôn bên nhau trên cuộc hành trình gian khổ của đời và cái hành trình bất tận đi tìm cái đẹp. Những giọt mồ hôi, những giọt màu mà anh chị nhỏ xuống trên hành trình sáng tạo nghệ thuật cứ như những hạt phù sa. Những hạt phù sa xuyên suốt hành trình miệt mài bồi đắp.

 

– Tiểu Lục Thần Phong
Ất Lăng thành, 0224

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
Cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư là một tác phẩm ám ảnh và đầy trăn trở, khiến tôi phải đọc đi đọc lại và phải suy ngẫm nhiều lần. Vì sao? Vì mỗi khi khép sách lại, tôi luôn có cảm tưởng dường như mình đã bỏ sót một điều gì đó…
Tôi sẽ nói gì về Phiến Hạ khi mùa hè chưa tới? Khi biển đã rộn ràng khơi nồng trong gió? Tôi có thể gợi khêu gọi nắng lên nhân quần khi lạnh gây vẫn u ẩn không gian? Có lẽ tôi sẽ mơ một khắc giây hội tụ, khát vọng liền tâm. Những mối dây xoắn gút cột thắt linh hồn. Ôi tôi mong bức đứt, chặt phăng mắt xích trói ghì...
Viết cho thế hệ trẻ là quan tâm lớn của nhiều nhà văn gốc Việt. Và mới trong tháng qua, nhà văn Trần Ngọc Ánh vừa ấn hành 2 bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp của tập hồi ký “Ba, Con Không Muốn Là Người Cộng Sản.” Bản dịch sang tiếng Anh do dịch giả Kim Vũ từ California thực hiện, nhan đề “Daddy, I don't Want to be a Communist.” Bản dịch sang tiếng Pháp do dịch giả Bảo Hưng từ Paris thực hiện, nhan đề “Papa, Je ne voudrais pas être communiste.” Cả hai bản dịch này ấn hành chung trong cuốn sách dày 184 trang. Bìa sách thực hiện bởi hai họa sĩ: Trần Nho Bụi và Phan Trường Ân. Một số tranh trong sách là từ họa sĩ Nguyễn Tư.
Có những cách để tưởng niệm 50 năm ngày Miền Nam tự do sụp đổ. Trong khi những cuộc hội thảo, chiếu phim, nhạc hội... do cộng đồng tổ chức sôi nổi khắp những tuần lễ trong tháng 4/2025, nhà văn Phan Nhật Nam và dịch giả Kim Vu có một cách lặng lẽ hơn: Dịch giả Kim Vu trong tháng Tư 2025 đã ấn hành tác phẩm tiếng Anh “The Sound Of A Suffering Land” – tuyển tập bản dịch 8 truyện của nhà văn Phan Nhật Nam.
Thơ mộng, uyên bác, thấu suốt Phật lý... Những dòng thơ của Thầy Tuệ Sỹ hiện lên trang giấy như các dãy núi nơi những đỉnh cao ẩn hiện mơ hồ giữa các vầng mây. Do vậy, dịch thơ Thầy Tuệ Sỹ qua tiếng Anh cũng là một công trình lớn, khi phải cân nhắc từng chữ một để giữ được cái thơ mộng, cái uyên bác, và cái nhìn thấu suốt ba cõi sáu đường của một nhà sư thiên tài, độc đáo của dân tộc. Hai dịch giả Terry Lee và Phe X. Bạch đã làm được phần rất lớn trong việc giới thiệu thơ của Thầy Tuệ Sỹ cho các độc giả trong thế giới Anh ngữ.
Mặc dù chỉ mới ba năm trôi qua kể từ khi bà Merkel rời nhiệm sở, nhưng thế giới đã thay đổi quá nhiều đến mức mà chức thủ tướng của bà đã được cảm thấy như nó thuộc về một thời đại khác. Cuốn hồi ký mới của bà cho thấy bà bình tâm với những quyết định đã đưa ra, bao gồm cả những quyết định bị phê phán nghiêm khắc nhất.
Nhà thơ, nhà báo Phạm Chu Sa đã tổ chức một buổi ra mắt hai tác phẩm trong vòng thân hữu tại tư gia của họa sĩ Nguyễn Đình Thuần chiều Thứ Sáu 2/5/2025. Tập thơ nhan đề “Tình Không” -- ấn hành cuối đời, gom lại tất cả các bài thơ tình của nhà thơ trong đó có 36 bài thơ đã đăng trước 1975 trên các tuần báo Khởi Hành, Tuổi Ngọc và các tạp chí Văn, Vấn Đề... và nhiều bài thơ tình gần đây. Cuốn thứ nhì là hồi ức “Chuyện Làng Văn” về các mảng đời trước và sau 1975 của 50 văn nghệ sĩ mà tác giả có cơ duyên thân tình.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.