Hôm nay,  

Từ “Mai” Đến Nền Điện Ảnh Việt Nam Thế Kỷ 21

26/03/202413:22:00(Xem: 3904)
Hình chiếu phim
Phim MAI chính thức khởi chiếu ở Mỹ và nhiều nước trên thế giới.
Ảnh của 3888 Films, quan cảnh khán giả quận Cam là lượt tại buổi công chiếu ra mắt phim Mai ở Irvine, California.

 

 

Buổi đi xem ra mắt bộ phim Mai của tôi và cô em văn nghệ trở nên thú vị hơn sau khi phim kết thúc, chúng tôi rủ nhau đi uống một vài ly rượu để nói đủ thứ chuyện về Việt Nam, về nền văn học nghệ thuật trong nước. Xem phim xong, chúng tôi vẫn cảm thấy “thiếu một cái gì đó”, cho nên chuyện phiếm “trà dư tửu hậu” tìm cho ra lẽ.

Có khi quảng cáo quá đáng về một bộ phim lại gây ra phản tác dụng. Mai được chính thức ra mắt vào ngày 22/03/2024 ở gần 200 rạp trên khắp Bắc Mỹ và Châu Âu, một sự kiện chưa từng có đối với một cuốn phim Việt Nam. Ngày ra mắt ở Quận Cam, rất đông giới nghệ sĩ gốc Việt được mời. Đích thân diễn viên kiêm nhà sản xuất Trấn Thành có mặt cùng diễn viên Hồng Đào có mặt để nói chuyện cùng khán giả. Một sự kiện được người trong nước mô tả là “hoành tráng”. Chắc tại vì vậy mà chúng tôi trông đợi hơi nhiều về bộ phim, cho nên bị hụt hẫng. Chứ nếu ngay từ đầu nghĩ rằng đi xem để “mua vui cũng được một vài trống canh” thì chắc không đến nỗi.

Mà ngay cả khi đi xem phim để “mua vui”, chúng tôi vẫn có một căn bệnh nghề nghiệp: xem phim như là một tác phẩm của nghệ thuật thứ bảy. Đừng nghĩ rằng những phim giải trí thuần túy kiểu đấm đá võ thuật, phiêu lưu mạo hiểm, phim hài, phim sến… là không có tính nghệ thuật, cho dù nội dung của chúng không có gì sâu sắc. Với kỹ thuật điện ảnh ngày nay, những cuốn phim võ thuật Trung Quốc, phim hài tâm lý Đại Hàn, phim hành động của Mỹ vẫn làm người xem cảm giác thỏa mãn khi bước ra khỏi rạp, cho dù vài tuần sau đã quên ngay cốt truyện của bộ phim. Nhiều bộ phim giải trí Việt Nam gần đây cũng đạt được điều này.

Nghĩ rằng có thể mình có cái nhìn khắt khe về phim ảnh trong nước hay chăng, nên sau khi xem phim tôi có hỏi ý kiến của người bạn từng là một đạo diễn sân khấu có tầm cỡ ở Việt Nam. Bạn tôi giải thích hết sức đơn giản: cổ nhân có câu "Người sao - chiêm bao vậy"! Từ lâu, anh đã không đi xem những “sản phẩm” (không phải là “tác phẩm”) điện ảnh trong nước. Như vậy, chúng tôi không phải là những người duy nhất có suy nghĩ khác với đa số khán giả đi xem khen ngợi bộ phim Mai.

Xét về kỹ thuật quay, dàn dựng phim, Mai không thua kém nhiều khi so với phim Hàn Quốc, vốn được nhiều người Việt say mê hiện nay. Ngay từ cảnh quay đầu tiên, đạo diễn đã chọn những góc quay rất sáng tạo, đẹp, thu hút người xem. Máy quay phim đi theo nhân vật Mai, khiến người xem chuẩn bị sẵn sàng đi theo nhân vật vào tận cùng ngõ ngách. Nhưng rồi giống như cảm giác gặp một cô gái đẹp hớp hồn người ta từ cái nhìn đầu tiên, nhưng khi bắt vào câu chuyện thì không còn thấy gì hấp dẫn nữa. “Mai” là như thế! Đây cũng là một điểm chung của khá nhiều phim Việt Nam mà một số khán giả hay gọi là “đầu voi, đuôi chuột.” Những cái đáng xem nằm ngay ở đầu phim, đến phần giữa thì nhạt dần, nhạt dần, đến kết thì làm giống như cho có, ngượng ngạo, thiếu lô-gic. Ngược lại, khi xem những cuốn phim phim giải trí hay, khán giả càng lúc càng bị cuốn vào tình tiết, diễn tiến của phim ngày càng mở ra, cuốn vào, và khán giả chỉ tìm được câu trả lời vào cuối phim. Lôi cuốn đến giờ phút chót. Mai không làm được điều đó.

Một điểm đáng nói về kỹ thuật của Mai cũng như nhiều bộ phim Việt Nam khác đó là phần âm thanh. Tại sao phim trong nước thường có âm thanh ồn ào quá, gây khó chịu cho người xem? Tại sao các nhân vật trong phim Việt hay lớn tiếng chửi rủa lẫn nhau như là một cách để thu hút khán giả? Tại sao khi diễn tả tình yêu, cũng phải hét lên: “Tui muốn yêu anh.” Tại vì môi trường trong nước quá ồn ào? Tại vì ngoài đời dân mình cũng hay sử dụng ngôn từ, cường độ âm thanh như thế khi nói chuyện với nhau? Hay tại vì đạo diễn và diễn viên chỉ biết cách dùng âm lượng thay vì vận dụng nội dung và diễn xuất để diễn đạt cao trào? Và liệu cao trào có còn “cao” hay không nếu từ đầu đến cuối đều cùng âm lượng hết cỡ như nhau? Và đó là chỉ mới nói đến âm thanh chói tai, chưa bàn đến âm nhạc. Âm nhạc trong phim (cũng như đối thoại) quá kịch tính, người xem chưa kịp cảm nhận vui buồn thì tiếng nhạc trùm lên đã bắt người xem phim phải hoặc quá “trầm buồn” hoặc quá “vui tươi”, không cho khán giả một khoảng lặng nào để đầu óc và cảm xúc được tự do rong ruổi.
Xét về kịch bản, Mai không có một cốt truyện mạch lạc, không thu hút người xem từ đầu đến cuối, cho dù chỉ là truyện giải trí. Kể chuyện là một nghệ thuật. Tác giả có quyền sắp xếp tình tiết sao cho hợp lý, tạo cho người xem nhiều cảm xúc nhất. Kịch bản của Mai không có sự mạch lạc, không có điểm nhấn, và thường có những lúc làm người xem “cụt hứng” vì ngôn ngữ và cách diễn đạt thái quá. Câu chuyện về cuộc đời cô gái masage đáng thương, đầy bi kịch, tưởng như sẽ có được một tình yêu chân thành với một chàng trai nhà giàu, nhưng rồi cũng tan vỡ. Đề tài loại này đã có cách đây hơn nửa thế kỷ, với những vở kịch của Kim Cương làm biết bao nhiêu người phải rơi lệ trên màn ảnh truyền hình. Mai không làm được điều này. Cuộc đời của Mai, mối tình của Mai và Sâu trong phim là những tình tiết chắp vá lại không có chủ đích. Phim như chỉ trôi dần đến đoạn cuối với một kết thúc khá có hậu (Mai trở nên thành đạt, giàu sang) thiếu lôgic.

Khóc cũng không được, mà cười cũng khó. Có một cảnh trong phim kéo dài gần một phút, một nhân vật trong phim đánh rắm tới hai lần. Cảnh có hai người, một nam một nữ diễn rất cường điệu về hành động dung tục này, có lẽ để thọc lét khán giả. Cười không nổi! Chẳng lẽ cần phải có những pha thô thiển kiểu này mới là “phim hiện thực xã hội” hay sao? Chẳng lẽ đa số khán giả trong nước thích thú với những kiểu cười như vậy?

Mới một năm trước, Trấn Thành giới thiệu bộ phim Nhà Bà Nữ ở Mỹ, cũng là một phim giải trí, nhưng có cốt truyện mạch lạc hơn. Tôi có đi xem, và có được cảm giác thư giãn, thoải mái hơn khi bước ra khỏi rạp nếu so với phim Mai.

Đi xem một bộ phim, người thích người không là chuyện rất bình thường. Đó là cảm tính của từng cá nhân, không có ai đúng hay sai. Nhưng nếu xem phim như là một tác phẩm của nghệ thuật điện ảnh thì lại khác. Người ta có thể đánh giá một bộ phim có giá trị hay không bằng những tiêu chuẩn chung, giống như giải Oscar với từng giải cho diễn viên, đạo diễn, kịch bản, âm thanh, kỹ thuật quay… Trước khi bắt đầu, Hồng Đào giới thiệu rằng trong lĩnh vực điện ảnh, ở Việt Nam Trấn Thành là một hiện tượng có một không hai, không ai có thể so sánh trong thời điểm hiện tại. Phim của Trấn Thành gần đây thường xuyên được trình chiếu ở nước ngoài, với sự quảng cáo trên truyền thông rất rầm rộ. Đối với nhiều khán giả trong và ngoài nước, Trấn Thành được xem như “đại sứ điện ảnh” của Việt Nam tại hải ngoại.

Mai là một “tác phẩm” của “đại sứ điện ảnh Việt Nam?” Cho dù câu trả lời của riêng tôi là không, nhưng cũng khó phủ nhận Mai là đại diện cho thị hiếu chung của đa số người đi xem phim trong nước, và bây giờ có lẽ cả hải ngoại? Dạo một vòng facebook sáng hôm sau buổi công chiếu phim, tôi thấy đa số người Việt quận Cam khen Mai hết lời. Đồng ý rằng Mai cũng có những điểm thành công, nhất là trên khuynh diện bộ phim giải trí được sản xuất theo sát khuynh hướng thương mại và thị hiếu chung chung của thị trường, và nhà làm phim có đủ kỹ thuật quay và dàn dựng hiện đại với dàn diễn viên hùng hậu, một tiến bộ khá rõ. Nhưng cho rằng đây là một phim hay, thậm chí hay nhất? Có lẽ đã đến lúc cần đặt câu hỏi về sự dễ dãi của khán giả Việt? Như vấn đề đã nhiều lần được đặt ra trong lãnh vực âm nhạc, với các ca sĩ trong nước gầm rú phô diễn kỹ thuật mà không chuyển tải được nội dung, cảm xúc của bài hát, phim Việt còn nặng tính phô trương kỹ thuật, nhét tất cả mọi chiêu, mọi nước bước, đường đi, ý tưởng vào cùng một vở kịch, rồi nhấn hết cỡ âm lượng, dung lượng trấn áp khán giả - hệt như việc đãi ăn một bữa buffet quá no nê, để khách hài lòng với số lượng mà quên để ý đến phẩm lượng.

Đến chừng nào thì Việt Nam mới có được những tác phẩm văn hóa nghệ thuật đủ tầm cỡ giới thiệu ra thế giới? Nhìn sang nền điện ảnh của Đại Hàn, Đài Loan, sẽ thấy họ đi xa như thế nào, cho dù về mặt kỹ thuật họ không vượt trội những bộ phim mới của Việt Nam là bao. Đâu là bản sắc của một nền điện ảnh Việt Nam trong tương lai?

Điều gì đang ngăn cản Việt Nam có được những “tác phẩm điện ảnh” đúng nghĩa? Câu trả lời có lẽ là của chung cho mọi lĩnh vực văn hóa nghệ thuật trong nước. Trong một xã hội không có tự do về tư tưởng, sẽ khó lòng cho ra đời những tác phẩm văn hóa nghệ thuật đích thực.

Doãn Hưng

Ý kiến bạn đọc
27/03/202416:47:59
Khách
Không nên so sánh nền điện ảnh Việt Nam trong nước hay hải ngoại với nền điện ảnh của các nước phát tgiàu có, đi trước mình hàng thập kỷ hay hơn nữa. Nước họ, dân tộc họ rất may mắn không phải đánh nhau, giữ nước gần như suốt chiều dài 4.000 năm như nước Việt, dân Việt. Hãy so sánh điện ảnh ví dụ đại diện là phim "Mai" của đạo diễn, nhà sản xuất, diễn viên Trấn Thành với chính him khi mới chập chững học hỏi, bước chân đầu tiên cố kiếm ra một cái gì đó mới lạ, mong giới thiệu với bè bạn năm châu.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở nước Mỹ hiện nay, các chính trị gia đang chia rẽ, đấu đá, tranh phiếu cử tri về những vấn đề tưởng như là “chuyện nhỏ” ở các quốc gia văn minh khác. Thí dụ như vấn đề về quyền của người đồng tính. Ở nước Mỹ tự do dân chủ nhất thế giới ngày nay vẫn xảy ra tình trạng đối xử tàn nhẫn, kém văn minh đối với những người đồng tính. Nhiều người khi nghe điều này sẽ không tin đó là sự thật. “Làm sao chuyện đó có thể xảy ra ở xứ sở văn minh này!?” Nhưng sự thật dù khó tin nhưng vẫn là sự thật. Nhất là khi nó được kể lại từ những nhân chứng sống, rồi sau đó được in thành sách, chuyển thể thành phim ảnh.
Trưa Chủ Nhật, 8 tháng 10 năm 2023, tại đài truyền hình SBTN, thành phố Garden Grove, Quận Cam đã diễn ra chương trình Ngọc Trong Tim kỳ 15, với phần trình diễn của các nghệ sĩ khuyết tật đến từ nhiều nơi...
Với một người lãnh đạo có cả tâm, tài và niềm đam mê, với một ban điều hành tâm huyết với nền văn học-nghệ thuật của người Việt tại hải ngoại, với những thiện nguyện luôn sát cánh trong gần hai thập kỷ, có vẻ như VFF đã sẵn sàng đi tiếp thêm 20 năm nữa...
Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm sinh năm 1930 tại làng Hoành Nha, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, trong gia đình theo đạo Tin Lành. Nhập học lớp Đệ Thất vào năm 1944 lúc 14 tuổi tại trường Bưởi...
Nhạc sĩ Y Vũ vừa qua đời tại Sài Gòn ngày 28-9-2023 hưởng thọ 83 tuổi (1940-2023); báo chí lại đặt vấn đề ai là tác giả thật sự của ca khúc nổi tiếng Tôi Đưa Em Sang Sông...
Sáng nay trên trang Facebook, ca sĩ Bảo Yến báo tin nhạc sĩ Quốc Dũng vừa ra đi ngày 24-9-2023. Khoảng mười mấy năm trước Quốc Dũng có sang Hoa Kỳ và ghé ở nhà người quen ở San Jose. Tôi chở Quốc Dũng ra quán cà phê Dạ Thảo, ngồi nghe anh kể chuyện văn nghệ. Anh nói rằng lần này sang Mỹ và sẽ xuống Quận Cam để gặp một nhạc sĩ nổi tiếng mà Quốc Dũng ngưỡng mộ. Bạn có biết người nhạc sĩ đó là ai không- tôi thoáng suy nghĩ- thì ra đó là nhạc sĩ Lam Phương!
Đối với nhiều người Việt tị nạn sinh sống tại hải ngoại, giữ gìn và quảng bá nền văn hóa nghệ thuật của cộng đồng người Việt tị nạn là một sứ mạng tinh thần quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ này không hề dễ, bởi vì các hoạt động văn học nghệ thuật của người Việt hải ngoại thường không sinh lợi, chưa kể công sức tiền của bỏ vào xiết kể. Những người làm văn hóa cần phải có tâm, có sự kiên trì, cả sự gan lì để thực hiện sứ mệnh của mình. Duy trì được những sự kiện văn hóa tại hải ngoại kéo dài đến 20 năm có thể được xem là một thành tích đáng kể. Và năm nay, Đại Hội Liên Hoan Phim Ảnh Việt Nam Quốc Tế “Viet Film Fest” bước vào mốc 20 năm, đánh dấu một đoạn đường dài phục vụ cộng đồng. Ngoài việc hỗ trợ và quảng bá những tác phẩm của các đạo diễn gốc Việt trên thế giới, Viet Film Fest quảng bá phim mang đề tài về con người hoặc văn hóa Việt Nam do những đạo diễn không phải gốc Việt thực hiện.
Hơn ba năm sau khi bị đánh cắp ở Laren, bức tranh ‘The Parsonage garden at Nuenen in Spring’ (tạm dịch: Vườn Nhà Mục Sư ở Nuenen vào Xuân) của Van Gogh đã được tìm lại. Việc trả lại được thực hiện bởi thám tử tư nhân người Hà Lan Arthur Brand.
Khi nói về nền âm nhạc Việt Nam thời hiện đại, không thể không nhắc đến nhạc sĩ Phạm Duy. Đã có quá nhiều mỹ từ mà giới yêu nhạc Việt Nam sử dụng khi nói về ông: người nhạc sĩ của thế kỷ, phù thủy âm nhạc, cây đại thụ của ca khúc Việt Nam… Cũng vì thế, viết và nói về nhạc sĩ Phạm Duy là một điều khó, vì đã có quá nhiều người phân tích từ đủ mọi góc cạnh. Từ những nhà phê bình âm nhạc, cho đến bạn bè của ông là những văn nghệ sĩ, hay những người mến mộ. Họ viết về cuộc đời nổi trôi theo vận nước Việt Nam của Phạm Duy, về giai điệu và ca từ Phạm Duy, về khả năng sáng tác bền bỉ của người nhạc sĩ thiên tài…
Viết về nhạc Phạm Duy mà không nói tới tiếng hát của ca sĩ Thái Thanh là một thiếu sót không nhỏ. Như ta bước hụt một nấc thang. Tiếng hát của ca sĩ là chỉnh lại thăng bằng giữa nhạc và lời, khi niềm tĩnh lặng cần thiết một biến đổi. Những lặng yên nốt nhạc của nhạc sĩ trên mặt giấy, bỗng rảo bước đi, qua lời ca sĩ. Nhạc của Phạm Duy là nhiên liệu. Thái Thanh đốt lên thành ngọn. Ngọn rực rỡ bình minh. Ngọn hắt hiu của cây đèn lạp đêm khuya. Lửa ấy, lời ca ấy, không chỉ để ta nghe, thổ lộ những tâm tình, mà, còn để ta Nhìn, những bức minh họa. Cánh diều, con đê, bên ánh đèn mẹ ngồi khâu áo, đèo núi cao đoàn quân đi qua, bờ nước rộng con thuyền lên đường viễn xứ, chiều làng quê anh thương binh trở lại, và nắng tươi màu, áo ai phận mỏng, và thế gian giao mùa chinh chiến, và âm dương trở mình trong tiếng chày kinh. Cõi nhân ảnh mờ mờ, ảo ảo, hay tục lụy rõ soi ấy, một kiếp đời, ai cũng từng trải.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.