Hôm nay,  

Đổi Tên Lãnh Tụ

28/03/202010:59:00(Xem: 3642)

Suốt thời gian qua, với những biến động đáng sợ trên thế giới về dịch Covid-19 – do người Trung Hoa tạp ăn gây ra – bà Trang cảm thấy uất hận nhà cầm quyền Trung cộng nhiều hơn chứ không thể nương vào lòng nhân đạo để bào chửa hoặc bênh vực cho Trung cộng trong sự kiện này. 


Bà Trang “gán” hai chữ “tạp ăn” cho người Trung Hoa không phải vì thành kiến mà chỉ căn cứ theo sách vở, báo chí. Thật vậy, người Tây phương, nếu các nhà khảo cứu tìm ra chủng loại nào sinh sản ít, sắp tuyệt chủng thì người Tây phương chú tâm, chủ động nuôi dưỡng để chủng loại sắp tuyệt chủng này được sinh sôi, nẩy nở.


Ngược lại, người Trung Hoa, khi biết chủng loại nào hiếm, sắp bị diệt vong thì người Trung Hoa càng cố tình tìm, tung tiền mua cho bằng được chủng loại đó để ăn; vì người Trung Hoa tin rằng ăn được loài thú hiếm quý thì họ sẽ được sống lâu hơn và sẽ nhận được ánh nhìn khác hẳn từ những người bình thường.

Cũng có khi người Trung Hoa ăn những con vật khác thường chỉ với mục đích chứng tỏ rằng họ “can đảm” hơn người! Và quả thật, khi người Trung Hoa dùng đũa gắp con dơi đen thui – còn nguyên đôi cánh – từ trong tô, đưa lên miệng, cắn, nhai ngồm ngoàm thì các dân tộc khác phải…rùng mình, “ngán” người Trung Hoa về thói tạp ăn!

Tin trên Yahoo: “The Novel Coronavirus Originated In Bats, And That's Actually Pretty Common”. Link:
https://www.yahoo.com/lifestyle/novel-coronavirus-originated-bats-thats-110000180.html
New York Post: “Deadly coronavirus may have originated in bats. Link:

 

https://nypost.com/2020/01/31/deadly-coronavirus-may-have-originated-in-bats-researchers/

Có nguồn tin loan truyền rằng Coronavirus là vũ khí hóa học do Trung cộng chế tạo. Nhưng, theo USA Today – trên Yahoo – thì:…Richard Ebright, a professor of chemical biology at Rutgers University, said in an interview with The Washington Post: “Based on the virus genome and properties, there is no indication whatsoever that it was an engineered virus.” Link:

https://www.yahoo.com/news/fact-check-did-coronavirus-originate-215649018.html


Một trong những sinh vật sắp bị tuyệt chủng được người Trung Hoa ưa thích là pangolin. Theo bản tin ngày 23-March-2020 do Uwagbale Edward-Ekpu cung cấp thì: “… The trade of pangolin, an endangered scaly ant-eating animal has been of concern for many wildlife conservation groups as it is the most trafficked mammal in the world. In China and Vietnam, the pangolin is valued for its scales—which are used to make medicines—as well as for its meat. Link: https://qz.com/africa/1823783/coronavirus-nigeria-not-stopping-pangolin-trade-trafficking/?utm_source=YPL&yptr=yahoo

 

Từ thói tạp ăn đến thói khạc nhổ, hỷ mũi bừa bải, nói ồn ào, cười “hô hố” của người Trung Hoa, bệnh dịch Covid-19 phát sinh và lây lan làm chết quá nhiều người; và mọi sinh hoạt trên thế giới trở nên đình trệ. Trong bản tin về pangolin lại có hai chữ Việt Nam khiến bà Trang cảm thấy bị tổn thương! 


Để xua đuổi niềm tổn thương và bực dọc trong lòng, bà Trang tìm đọc những tin khác, cố tránh tin về Covid-19.


Trong khi tìm tin trên internet, vô tình bà Trang thấy ảnh của một bác nông phu người Việt, ngồi trên mặt ruộng nứt nẻ, khô cằn. Bề ngang của mỗi vết nứt ngoằn ngoèo, nơi nhỏ nhất, khoảng một hoặc hai đốt ngón tay. Bên trái của bác là vài khóm lúa tàn úa vì thiếu nước. Với dáng vẻ rất đau buồn, bác nông phu dõi mắt về hướng thượng nguồn sông Mekong – như chờ đợi, như mong ngóng, như ao ước, như oán trách một điều gì!


Ánh mắt của bác nông phu gợi lại trong lòng bà Trang mối tình cảm thiết tha bà đã dành cho Quê Hương trong chuyến du lịch Trung cộng, vào thập niên 90. 


Trong chuyến du lịch thời 90, bà Trang cùng nhóm du khách được Chad – hướng dẫn viên du lịch, người Tàu, chỉ đàm thoại bằng tiếng Anh – đưa đi xem Vạn Lý Trường Thành. Sau đó nhóm du khách được đến thăm ngôi nhà của Khổng Tử. Sau khi Chad giới thiệu về sự nghiệp của Khổng Tử, bà Trang đưa tay, xin hỏi một câu. Chad vui vẻ:


-Vâng. Mời bà.


-Cảm ơn Chad. Tôi là người Việt Nam – nhưng không phải là Việt Nam cộng sản. Tôi muốn hỏi xem Chad biết câu: “Trai năm thê bảy thiếp; gái chính chuyên một chồng” là của ai? Không Tử, Lão Tử hay Trang Tử?


-Sorry, tôi không biết. Nhưng tại sao bà lại hỏi tôi câu đó?


-Tôi muốn tìm hiểu xuất xứ câu đó; vì câu đó đã dìm cuộc đời của không biết bao nhiêu thế hệ phụ nữ Việt Nam xuống vực sâu!


Chad lắc đầu, cười:


-Rất tiếc. Tôi không biết tác giả câu này là ai. Nhưng nếu bà muốn biết ông Khổng Tử có mấy vợ thì tôi có thể cho bà biết một cách rất chính xác. 


Cả nhóm du khách đều cười, chờ đợi. Bà Trang hỏi:


-Bao nhiêu?


-Tám! Vợ chính thức đó, nha!


Cả nhóm du khách đều cười và có vẻ tin lời Chad.


Khi đưa đoàn du lịch đến Tử Cấm Thành, Chad chỉ tấm ảnh của Mao Trạch Đông – rất lớn, treo trên tường, phía ngoài Tử Cấm Thành – rồi huyên thuyên giới thiệu rằng Mao Trạch Đông là một trong ba vị anh hùng của Trung Hoa. Với bản tính thẳng thắn, không biết sợ, bà Trang bảo:


-Sorry! Với người Trung Hoa, có thể Mao Trạch Đông là một người hùng. Nhưng với tôi và dân tộc các nước nhỏ có cùng biên giới với Trung Hoa thì Mao Trạch Đông là một kẻ sát nhân!


Chad vẫn trầm tĩnh:


-Tại sao bà lại nói như thế?


-Chính ông Mao Trạch Đông đã khởi động và yểm trợ một cách rất đắc lực cho cộng sản Việt Nam (csVN) suốt cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong cuộc chiến Bắc và Nam Việt Nam, tôi nhận ra sự tàn ác và vô nhân tính của chiến thuật biển người, do Trung cộng dạy cho csVN để csVN giết người cùng huyết thống – người miền Nam Việt Nam! Và cuối cùng là cuộc tắm máu và cướp tài sản do csVN dành cho chúng tôi, sau tháng Tư 1975.


Lúc này ông Lê – chồng của bà Trang – mới giật mình vì tính thẳng “như ruột ngựa” của vợ, vừa đưa bà Trang ra xa nhóm du khách vừa “bịa” ra lý do để bào chửa cho vợ:


-Sorry! Làm ơn đừng để ý những gì vợ tôi nói. Khi nào bả giận tôi bả cũng trút tất cả phẫn nộ lên người khác; nhưng tâm của bả rất thiện. 


Chad đáp:


-Ông đừng lo. Bà ấy nói gì cứ để bà ấy nói. Trung Hoa là nước… “tự do” mà!


Sau đó, Chad cho đoàn du khách biết sẽ du ngoạn trên sông Dương Tử bằng du thuyền nhỏ. Mọi người đều vui; vì hầu như ai cũng từng đọc hoặc nghe nói về dòng sông bất tận này. Đến bờ sông, khi rời xe buýt, ngang nơi Chad đứng chờ, bà Trang nói:


-Sorry, Chad! Tôi hiểu, những gì tôi nói tại Tử Cấm Thành có thể xúc phạm đến niềm tự ái dân tộc của Chad. Nhưng tôi và nhiều người trong gia đình tôi đã là nạn nhân của ông Mao và csVN. 


-Bà vui là tốt rồi. Tôi nghĩ cảnh sắc của dòng Dương Tử sẽ chinh phục cảm tình của bà.


Đúng như lời Chad nói. Giữa hai bờ đá thẳng đứng, chiếc du thuyền nhỏ trôi lặng lờ xuôi dòng Dương Tử hùng vĩ. Nhìn dòng nước đục ngầu phù sa của sông Dương Tử, bà Trang chạnh lòng nghĩ đến những đoàn chiến đỉnh của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) mà lúc nhỏ bà thường thấy trên những dòng sông ở U-Minh, Chương Thiện.


Nhớ đến quê nhà và tuổi thơ, bà Trang tưởng như nghe được tiếng hát xưa âm thầm ngân lên trong hồn:


Về miền Tây. Có ai về miền Tây.

Lúa mùa hương thơm ngát

Dừa xanh nghiêng chênh chếch

Cá ngược dòng sông này…(1)


Xuất thân là một cô gái quê miền Chương Thiện, bà Trang thương dòng nước đục phù sa và các đồn Nghĩa Quân dọc hai bờ sông bao nhiêu thì bà cũng thương "mấy ông Lính" VNCH bấy nhiêu! Bà Trang nhận thức được rằng: Danh dự của một dân tộc không phải từ dinh Tổng Thống – mà danh dự của một đất nước, một dân tộc được vun bồi nhờ sự hy sinh hào hùng của những người Lính vô danh tại nhiều chiến trận xa xôi, ít ai biết đến!


Đang trầm ngâm với những kỷ niệm đẹp vô ngần trên những dòng xưa, bà Trang chợt thấy mọi người “ùa” về phía mũi chiếc du thuyền rồi giọng ông Lê:


-Em! Đi, đi tới đây xem cái đập nước to “chần dần”, chận ngang sông Dương Tử.


Đứng cạnh chồng, bà Trang nhìn chăm chăm vào đập nước, nghẹn lời! Nhiều người bàn tán nho nhỏ. Một chốc sau, như không thể giữ im lặng được nữa, ông Lê nói:


-Mẹ! Nó làm “cái điệu này” thì Việt Nam “chết ngắt”! Khốn nạn! Đó, nó giúp bộ đội ông Hồ Chí Minh thắng Tây, thắng Mỹ; bây giờ nó thắt ngang “cuống họng” của vựa lúa miền Tây Nam Việt, đố thằng csVN nào dám “hó hé”? Mẹ bà csVN! Thứ “khôn nhà dại chợ”!


Bà Trang lặng yên, lấy khăn giấy thấm nước mắt – mà không hiểu được tại sao nước mắt của bà lại rơi!


Nếu những giọt nước mắt của bà Trang trên dòng Dương Tử là những giọt nước mắt uất hận dành cho Trung cộng thì những giọt nước mắt của bà Trang ngày bà vượt biển, bỏ lại Cha Mẹ, anh chị em và người yêu – ông Lê – trong trại cải tạo lại là những giọt nước mắt buồn tủi cho thân phận của người phải lìa bỏ Quê Hương và người yêu! Những lúc ấy bà Trang chỉ biết vừa quẹt nước mắt vừa thổn thức âm thầm khi tiếng hát xưa vọng về:


“…Chiều đến đìu hiu mang cả niềm thương nhớ.

Ai về biết chăng đây còn tôi, buồn mơ!

Quê Hương biết chăng đây một kiếp lạc loài!...” (2)


Niềm buồn tủi của bà Trang kéo dài không lâu thì ông Lê trốn trại, vược biên bằng đường bộ. 


Hôm đầu tiên, bất ngờ thấy ai giống Lê đang làm thủ tục nhập trại tại văn phòng của trại tỵ nạn Galang, Trang vừa chạy đến vừa reo vang:


-Anh Lê! Anh Lê! Phải anh Lê không? Em, Trang nè!


Quay về hướng có tiếng gọi, nhận ra Trang, Lê vừa chạy đến vừa đáp:


-Ủa, Trang! Trời ơi! Trang!


Đó là lần đầu tiên Trang ngã gọn vào đôi tay không còn rắn chắc của Lê!


Tối đó, Trang rũ bạn của nàng và Lê mời những người may mắn sống sót trên chiếc thuyền có Lê đi cùng, đến căn lều Trang tạm trú. Sau một lúc kể cho nhau nghe về những hãi hùng mà mọi người đã trải qua, một người đề nghị ca hát cho vơi buồn. Thông dịch viên cho văn phòng của trại – người ngầm có cảm tình với Trang – bảo:


-Ý kiến hay. Để tôi tìm David –  nhân viên của Hội Hồng Thập Tự quốc tế – mượn Guitar.


Mọi người vỗ tay. Một chốc sau, thông dịch viên trở lại với một Acoustic Guitar. Sau khi vài người “trổ tài”, Lê xin góp vui để giàn trải nỗi niềm với Trang:


-Cho tôi tham gia với!


Nhận Guitar xong, Lê dạo vài notes rồi tự giới thiệu:


-Tôi xin hát bài Lady của Lionel Richie.


Thông dịch viên ngạc nhiên:


-Ủa, mới vượt ngục csVN mà sao biết bài này?


Lê giải thích:


-Lúc còn trong tù, tôi biết một vệ binh trẻ, hiếu học và không tàn ác với tù nhân. Giờ ăn trưa, trong rừng, tôi dạy Anh văn cho cậu ấy. Một buổi chiều, thấy cậu ấy và vài vệ binh xúm lại nghe radio, tôi bước đến, bảo: Có radio thì nên nghe đài “nước ngoài” để tập nghe tiếng Anh cho quen. Không cậu nào biết tầng số đài ngoại quốc; thế là tôi mở hộ. Trời giun rủi sao tôi nghe được bài Lady. Tôi vội xin giấy, mượn bút viết lời ca và cố ghi nhận giai điệu của bản nhạc; vì vậy, nếu tôi hát sai, lạc giọng, mong các bạn niệm tình tha thứ.


Dĩ nhiên không thể nào Lê hát hay được; vì sai nhịp, sai giọng hoặc sai lời ca. Nhưng đến phân đoạn giữa, có lẽ vì lời ca diễn đạt được nỗi niềm của chàng, Lê hát rõ từng chữ và trái tim của Trang cũng thổn thức theo tiếng hát của chàng:


… Lady, for so many years I thought I'd never find you
You have come into my life and made me whole

Forever let me wake to see you each and every morning…

Hôm sau, Lê và Trang làm thủ tục “nhập” vào một hồ sơ. Nhờ gốc nhà binh, Lê và Trang được sang Hoa Kỳ định cư. Lê và Trang đi làm ban ngày; ban đêm đi học.


Một buổi tối mưa lất phất, sau khi tan học, Lê và Trang đi ra nơi dựng hai chiếc xe đạp – nhà thờ cho mượn. Đang mở khóa xe, Lê và Trang cùng nghe giọng của thầy Smith:


-Hi! Mưa mà hai bạn đi xe đạp à?


Lê đáp:


-Thưa giáo sư, chúng tôi chỉ có phương tiện này thôi.


-Ô, vậy sao? Đi! Đi theo tôi. May quá, nhờ đài khí tượng cho biết hôm nay mưa cho nên tôi đi chiếc truck. Chúng ta để hai chiếc xe đạp phía sau; hai bạn ngồi phía trước với tôi. Okay!


Sau khi cho Smith biết địa chỉ, Lê và Smith hỏi thăm nhau về gia đình, về những khó khăn mà di dân nào cũng phải trực diện. Bất ngờ Trang lên tiếng:


-Thưa giáo sư, cho phép tôi hỏi một câu, được không ạ? 


-Bà cứ tự nhiên.


-Thưa, ông có biết là trường này có nhiều sinh viên người Trung Hoa hay không?


-Biết chứ.


-Tại sao người Trung Hoa lại được phép sang Mỹ du học? Người Mỹ quên cuộc chiến Việt Nam nhanh đến như vậy sao?


Smith hơi lúng túng:


-Tôi chỉ là một nhà giáo. Tôi không chú ý đến chính trị. Nhưng việc người Trung Hoa sang Hoa Kỳ du học không phải mới xảy ra vào thời đại của chúng ta – mà sinh viên Trung Hoa đã sang Mỹ du học từ thời bà Từ Hy Thái Hậu lận! (3) 


-Ông không đùa chứ? 


Smith khoát tay:


-Không. Nếu tôi nhớ không lầm thì người Trung Hoa đầu tiên sang Hoa Kỳ du học tên Dung Hoành, ở Ma-Cao, được hội truyền giáo trợ cấp. Năm 1854 Dung Hoành tốt nghiệp từ đại học Yale. (4) 


Trang có vẻ bực tức:


-Tôi không hiểu tại sao một quốc gia văn minh, phồn thịnh – như nước Mỹ – lại giúp đỡ Trung Hoa để sau này chính nước Mỹ sẽ bị nhiều phiền nhiễu mà người Mỹ không thể ngờ tới. 


-Chúa dạy chúng ta nên giúp đỡ mọi người.


-Phật “của tôi” cũng dạy như thế. Nhưng, tiếc rằng trình độ Anh văn của tôi chưa đủ để tranh luận với ông.


Smith giải thích:


-Tôi nghĩ, Trung cộng là nước đông dân nhưng lạc hậu. Chúng ta nên giúp cho dân Trung cộng có được đời sống đầy đủ, thoát khỏi nghèo đói và hấp thụ nền dân chủ, văn minh của Tây Phương thì người dân Trung cộng sẽ lật đổ chế độ cộng sản độc tài.


-Từ thời bà Từ Hy Thái Hậu cho đến bây giờ người Trung Hoa có hấp thụ được nền dân chủ và văn minh của Tây phương hay chưa, tôi không biết; điều tôi biết chắc chắn là một ngày nào đó người Mỹ sẽ khám phá ra là những tài liệu bí mật của Hoa Kỳ sẽ “không cánh mà bay”; rồi Trung cộng sẽ vươn lên nhờ vào khối tài sản trí tuệ mà sinh viên Trung cộng đã và đang ăn cắp của Mỹ.


Im lặng. Dường như Smith không tin lời Trang. Lê lên tiếng:


-Em à! Người Trung Hoa cũng có người tốt người xấu. Phải phân biệt, nói cho rõ ràng; nếu không, sẽ bị ghép vào tội kỳ thị.


Trang đáp:


-Dĩ nhiên. Đối với em, người Trung Hoa tốt và tài hoa nhất là nhạc sĩ La Hối – tác giả bài luân vũ bất tuyệt Xuân Và Tuổi Tre – và người Trung Hoa ở Việt Nam; vì người Trung Hoa ở Việt Nam đã hấp thụ được nền tự do, nhân bản của xã hội Việt Nam không cộng sản. Sau 75 số người Trung Hoa này cũng vượt biên rầm rộ để tránh sự cai trị sắt máu của csVN. Ông Bà mình thường nói “Rau nào thì sâu đó”. Một dân tộc hoặc một vài thế hệ bị băng hoại tư tưởng là do chế độ và cấp lãnh đạo trong thời gian đó tạo nên. Con người sống dưới sự cai trị sắt máu của một chế độ tàn bạo thì – vì bản năng sinh tồn – người dân cũng sẽ phải trở nên độc ác, gian manh để được tồn tại dưới chế độ đó. Điễn hình là người Việt Nam trong nước hiện nay, sau gần nửa thế kỷ sống dưới sự cai trị tàn bạo của csVN.


Smith vẫn im lặng. Lê “bấm” tay Trang, ngụ ý bảo vợ đừng nói nữa. Trang nhìn Lê rất nhanh, thầm nhủ, không tôi cho nói thì tôi nghĩ. 


Theo sự suy nghĩ của bà Trang, số người Việt Nam trong nước hiện nay, một tay đưa ra nhận tiền của bà con từ hải ngoại gửi về để hưởng thụ; một tay dương cao cờ đỏ sao vàng để “lấy lòng” đảng và “nhà nước” csVN! Người Việt trong nước sống “hai mặt” như thế cho nên đảng csVN mới có thể tồn tại cho đến bây giờ!


Từ thái độ sống “hai mặt” của người Việt trong nước bà Trang liên tưởng đến hành động bất lương của sinh viên Trung cộng sang Mỹ du học: Một mặt, họ hấp thụ, hưởng lợi nhuận từ nền học vấn của Hoa Kỳ; mặt khác, họ cố len lõi vào các trường đại học, cơ quan quân sự, Trung Tâm Không Gian, kỹ thuật, y khoa, nông nghiệp, v.v… để ăn cắp tài liệu rồi chuyển về Tàu!


Sự việc người Trung Hoa có học thức ăn cắp tài liệu của Mỹ đã được nhiều cơ quan truyền thông Hoa Kỳ cảnh báo từ lâu. Nhưng dường như chính phủ Hoa Kỳ chưa có biện pháp trừng phạt tương xứng với tội trạng của kẻ cắp.


Năm 2009, National Security Agency Director General Keith Alexander called Chinese IP theft the greatest transfer of wealth in history. He put the value of cyber-theft of US trade secrets and intellectual property (IP) at a stunning $250 billion a year and called it “our future disappearing in front of us.” Link:

https://www.prosperousamerica.org/top_ten_cases_of_chinese_ip_theft


Cũng trong Link đã dẫn bên trên, bản tin ngày 01 tháng 05-1918 – do Jeff Ferry Research Director thuộc The Coalition for a Prosperous America (CPA) cung cấp – thì có mười trường hợp quan trọng do người Trung cộng du học, làm việc tại Hoa Kỳ ăn cắp tài liệu của Hoa Kỳ, liệt kê như sau:


1.- The Wind Turbine Case

2.- The Oreo White Case

3.- The Motorola Case

4.- The Iowa Seed Corn Case

5.- The Tappy the Robot Case

6.- The CLIFBAW case

7.- The Allen Ho TVA/Nuclear Power case

8.- The File Storage and China National Health case

9.- The Unit 61398 Case

10.- The Great Firewall Case.


Đang bực dọc vì sự gian manh, quỹ quyệt của sinh viên và người Trung Hoa tại Hoa Kỳ, bà Trang kéo “con chuột”, muốn xoay tìm tin khác thì nghe tiếng hát văng vẳng từ dưới lầu. Chỉ một thoáng thôi, tiếng hát trở nên rõ dần: … Lady, for so many years I thought I'd never find you…” Bà Trang lại nghe tiếng chân người bước lên cầu thang rồi tiếng ông Lê bắt chước mấy đứa cháu:


-“Ba Noi”! “Ba Noi” biết gì không?


Bà Trang bước ra cửa phòng computer, hỏi:


-Gì vậy, ông?


-Ca sĩ “ruột” của “ba Noi” chết rồi!


-Bà Thái Thanh, phải không?


-No, “Sir”!


-Vậy thì ai?


-Kenny Rogers.


-Trời!


Với gương mặt đượm buồn, bà Trang quay vào phòng computer. Ông Lê vừa bước theo vừa nói:


-TV nói về cái chết của Kenny Rogers rồi chiếu lại cảnh Kenny Rogers hát bài Lady làm anh nhớ lúc mình gặp lại nhau ở Galang. 


Bà Trang nhìn ông Lê với ánh mắt đầy thương yêu. Nhìn computer, thấy bản tin bà Trang đang đọc dỡ, ông Lê tiếp:


-Lại cũng chuyện mấy “thằng” Tàu! “Tui” nói hoài mà cô không chịu nghe. Tuổi này rồi, ai làm gì, “kệ mẹ” nó. Cô suy nghĩ làm chi cho nhức đầu!


-Ai cũng nói và nghĩ như ông thì cái ác không bao giờ ngưng hủy diệt loài người.


Ông Lê hỏi lơ chuyện khác:


-Hôm nay, ngoài tin “Tàu dịch” còn có tin gì lạ không?


-Thì cũng mấy người Tàu ăn cắp tài liệu của Mỹ và vụ Covid-19 thôi.


-Tưởng gì! Ăn cắp và ở dơ là “nghề” của Tàu cộng mà!


Bà Trang thở dài, than:


-Tội nghiệp bà Mẹ của bác sĩ Li Wenliang! Từ 30 tháng 12-2019, bác sĩ Li Wenliang đã “báo động” cho bạn hữu hay về đại dịch Coronavirus. Nhưng vì muốn che giấu thế giới về thói tạp ăn của người Trung Hoa, nhà cầm quyền Trung cộng “bịt miệng” bác sĩ Li Wenliang. Sau khi bác sĩ Li Wenliang nhiễm Covid-19,  chết, nhà cầm quyền Trung cộng đền bù $821,000.00 Yuan – tương đương $117,400.00 USD. Đã vậy, bây giờ Trung cộng lại đỗ thừa là dịch Coronavirus do Lục Quân Hoa Kỳ đến Wuhan tham dự Military World Games hồi tháng Mười 2019 – đã bị nhiễm Coronavirus rồi mang sang – lây cho dân Trung Hoa.


-Mẹ! Khốn nạn! “Vừa ăn cướp vừa la làng”! 


Bà Trang đưa cho ông Lê xem vài bản tin mà bà đã in ra: Hành độnh mờ ám của ông Xi về dịch Wuhan, ngày 25-March-2020, đã bị ông Mike Pompeo “cự”. Trên New York Times, by Reuters ghi rằng: “… U.S. Secretary of State Mike Pompeo sharpened on Thursday his criticism of China's handling of a coronavirus pandemic, saying its ruling Communist Party was still denying the world information needed to prevent further cases…”. Hôm nay, theo Helen Briggs - BBC News, ngày 26-March-2020, 5:36 AM CDT: “… Pangolin facing greater threat of extinction during coronavirus outbreak. Pangolins smuggled into China have been confirmed to contain viruses closely related to the one sweeping the world…”. Cũng hôm nay, trên Yahoo News, Mairead McArdle đưa tin: China Supplied Faulty Coronavirus Test Kits to Spain, Czech Republic. Link: https://www.yahoo.com/news/china-supplied-faulty-coronavirus-test-162306412.html


Xem xong, ông Lê lắc đầu:


-Quả thật, Trung cộng – cũng như csVN – hễ dối được ai thì dối; gạc được ai thì gạc. Bị “lòi tẩy” thì cứ dơ “mặt mẹt” ra là…huề.


Ông Lê vừa ngồi vào ghế trước computer, đưa “con chuột” “rà rà” vừa tiếp:


-Hồi sáng xem iPad, anh thấy mấy chữ này hay lắm. Trong những hành động khuấy phá vùng Á Châu, cướp Hoàng Sa và tranh chấp Trường Sa của Việt Nam, phô trương lực lượng quân sự ở Biển Đông và dùng tiền để thuê mướn hoặc mua đất, hải cảng của Việt Nam và các nước nhỏ, v.v… ông Xi rất xứng đáng với “danh hiệu” này.

-Danh hiệu gì mà “ghê” vậy?


-Danh hiệu này “ra đời” lâu rồi, dùng để đề cập đến những nhà lãnh đạo điên rồ với tham vọng bá chủ toàn cầu.


Giọng bà Trang có vẻ chán nản:


-Trung cộng ăn cắp tài liệu của Mỹ về làm của riêng. Dù trở thành bá chủ đi nữa, Trung cộng cũng bị nhục với thế giới; vì tất cả thông tấn xã Hoa Kỳ đều đăng đích danh tên họ của kẻ cắp và kèm theo chữ Chinese!


-Nếu nó biết nhục nó đã không làm!


Im lặng. Chỉ một thoáng thôi, ông Lê reo lên:


-Đây rồi! 


Nhìn lên màn ảnh computer, thấy ông Lê tô đậm hàng chữ: The headline on the Journal’s opinion column referred to the current virus outbreak in China and called the Country the “Real Sick Man of Asia.” Bà Trang vừa reo vui vừa nhảy “cà tưng”:


-Vậy thì tui sẽ đổi tên ông Xi bằng bốn chữ: Sick Man of Asia! Ha…ha…Xi is Sick Man of Asia! Xi is Sick Man of Asia!...


Ông Lê và bà Trang cùng cười vang như hai người trẻ vừa tìm được niềm vui trọn vẹn./.


ĐIỆP MỸ LINH


www.diepmylinh.com


 


Chú thích:

1.- Về Miền Tây của Y Vân.

2.- Bến Thu của Điệp Linh Nguyễn Văn Ngữ.

3 & 4.- Wikipedia tiếng Việt.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.
Anh cho xe dừng lại nơi góc đường rồi đi bộ về phía căn nhà. Tuyết đang rơi dầy đặc trắng xóa cả bầu trời, đúng là một White Christmas như nhiều người mong muốn. Những ánh đèn màu trang hoàng trước sân các nhà nhấp nháy vui tươi như đang mừng đón Chúa Hài Đồng giáng trần. Anh bước lên bậc thềm gỗ, bước rón rén đến cửa sổ nhìn qua tấm rèm mỏng, hơi giật mình sựng lại khi thấy ba mẹ con cô ấy đang dọn bữa ăn đêm Noel. Hẳn là họ vừa đi lễ về, anh thầm nghĩ. Nhìn đứa con trai mười ba tuổi và đứa con gái mười một tuổi giúp mẹ sắp xếp bày biện thức ăn trên bàn, anh thoáng chút xúc động và an tâm vì các con đã lớn, có thể đỡ đần mẹ trong nhiều việc nhà, anh cũng thấy bớt đi mặc cảm tội lỗi của mình.
Chuyện xảy ra trên một chuyến xe Greyhound. Xe đò Greyhound có vẽ con chó sói xoải cẳng phi nước đại bên hông là thứ nối liền các thành phố bên Mỹ và Canada. Nhiều người trong chúng ta chắc đã từng ngự trên những chuyến xe xuyên liên bang này. Tôi cũng đã từng xuôi ngược với Greyhound. Từ Montreal qua Washington D.C. thăm bạn bè dân thủ đô nước Mỹ như các ông Dzương Ngọc Hoán, Nguyễn Tường Đằng. Từ Vancouver qua Portland thăm ông Từ Công Phụng. Từ Seattle về Vancouver sau khi cưỡi du thuyền đi Alaska thăm mấy chú gấu tuyết. Nói như vậy để thấy tôi cũng có chút kinh nghiệm khi chen vai thích cánh cùng những người không có hoặc ngại lái xế riêng.
Hai chữ giang hồ không mấy xa lạ trong đời sống của mỗi người đều thường đề cập trong thơ, văn, điện ảnh… và cũng là câu nói thường tình với cá nhân, nhóm người trong xã hội. Tác phẩm Thủy Hử ban đầu là Giang Hồ Khách Truyện, sau lấy tên là Thủy Hử vì “căn cứ địa” Lương Sơn là vùng đầm, hồ nên Thủy Hử (bến nước). Truyện nầy qua bản dịch của La Thần và Á Nam Trần Tuấn Khải, gồm 3 cuốn, năm 1973, sau đó với Tử Vi Lang nên rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Trong truyện Thủy Hử của của nhà văn Thi Nại Am (1296-1372) ở Trung Hoa vào triều Nguyên-Mông (1295-1368), kể về câu chuyện của Tống Giang triều nhà Tống, nổi dậy kéo theo “giang hồ hảo hán” gồm 108 người đến núi Lương Sơn. Gọi là anh hùng Lương Sơn Bạc.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.