Hôm nay,  

Ngày Lễ Tình Yêu, Bình Luận Ca Dao Về Tình Yêu Và Gia Đình

14/02/202109:14:00(Xem: 3529)
HINH CHO BAI CUA NGUYEN LE
Cà Mau ngày Tết. (hình Nguyễn Lễ)

Số là tôi có cái may từ nhỏ đã được nghe rất nhiều câu ca dao trong lời hát ru từ những người xung quanh từ dưới quê cho tới thị thành. Nghe riết rồi thuộc, rồi thấm hồi nào không hay, rồi lâu lâu lôi ra nghiền ngẫm: ‘sao ông bà mình hồi xưa hay vậy ta? Nói câu nào trúng câu đó!’ Sẵn sắp đến ngày lễ Tình Yêu tự dưng trong đầu tôi ào ạt tuôn ra mấy câu ca dao về tình yêu-hôn nhân-gia đình, tôi xin ghi lại ra đây để biết thêm về tâm lý, suy nghĩ, tình cảm của ông bà ta thuở trước và nhất là để học hỏi từ một ‘tàng thư về hôn nhân-gia đình’ mà người xưa đã đúc kết.

 

Thể loại này bao la mà tôi chỉ biết một tí một tẹo nên quý vị nào một bồ một bụng thấy sai sót thì xin chỉ bảo thêm.

 

                     Ví dầu nhà dột cột xiêu

            Muốn đi lấy vợ sợ nhiều miệng ăn 

 

Ko phải lấy vợ về sợ hao cơm tốn gạo mà chỉ vì nhà nghèo quá lấy về sợ vợ khổ  —> chân tình!

 

                Thương nhau xa cũng nên gần

         Đừng nên tham phú phụ bần khó coi

 

Nhắn ai đó đừng ngó chỗ giàu sang mà bỏ chốn bần hàn, quên tình tấm mẳn để sau này hối không kịp.

 

               Thương nhau duyên phận thì thôi

                Của thì như nước hồ vơi lại đầy

 

Phải duyên phận thì mới ăn đời ở kiếp,  còn của nả thì lúc vầy lúc khác, quan trọng là nhìn người chứ đừng nhìn của vì người tạo ra của.

 

                   Thò tay mà bứt cọng ngò 

            Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ

 

Anh nào mà làm bộ ngó lơ thì chắc là thương đứt ruột rồi, nhưng quan trọng là phải biết là lơ thiệt hay lơ giả đò. 

 

                Dây tơ hồng chửa se đã mắc

        Rượu quỳnh tương chưa nhấp đã say

 

Rượu chưa nhấp mà đã say, này là tình cảm say sưa đắm đuối, sinh ra để dành cho nhau, đã mắc vào thì gỡ mấy cũng không ra. 

 

                    Sông dài cá lội biệt tăm

     Phải duyên chồng vợ, ngàn năm vẫn chờ 

 

Đời người được mấy chục năm mà đợi đến ngàn năm? Thế mới biết hai chữ nhân duyên có sức dời sông lấp bể như thế nào.

 

               Chàng đi cho thiếp theo cùng 

      Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam

 

Một khi đã thương thì một lòng một dạ đi theo, chỉ cần được ở bên cạnh thì cực khổ gì cũng chẳng sá, nguy hiểm chi cũng chẳng màng. 

 

                Trắng da vì bởi phấn dồi

          Đen da vì bởi em ngồi chợ trưa

 

Phấn dồi mưa cái trôi hết nhưng có ngồi chợ trưa thì mới ‘nuôi đủ năm con với một chồng’ như Tú Xương trải từng tấc lòng ‘thương vợ.’

 

                Trai khôn tìm vợ chợ đông 

       Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân 

 

Bí kíp này thời nay hơi trật nhịp vì mấy nàng đi chợ thì ít mà đi siêu thị thì nhiều, còn mấy chàng còn ai xông pha lằn tên mũi đạn nữa? 

 

             Tay bưng dĩa muối chấm gừng 

     Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

 

Vợ chồng ăn ở với nhau cái tình cái nghĩa sâu nặng ghê lắm, như dĩa muối mặn chát với củ gừng thiệt cay vậy mới thấm, mới nhớ đời.

 

               Râu tôm nấu với ruột bầu 

    Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon

 

Món ăn ‘huyền thoại’ thời nay mấy người được nếm? Mạnh bạo đề xuất các đôi mới cưới nấu món này ăn thử để xem có ngon thiệt không?

 

               Chim quyên ăn trái nhãn lồng 

      Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi 

 

Cha mẹ không quen hơi con cái, con cái lớn lên không còn hơi cha mẹ, anh chị em ko ai biết hơi ai, chỉ có vợ chồng mới quen hơi - ông bà ta thiệt tâm lý!

 

                Sông sâu sào vắn khó dò

       Muốn qua thăm bậu sợ đò không đưa

 

Đâu phải cuộc tình nào cũng tròn vẹn. Có những người thương nhau mà không đến được với nhau vì ràng buộc, trách nhiệm và định kiến.

 

                Má ơi đừng gả con xa

       Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu

 

Câu này thời nay mấy người thấm, nhưng cứ tưởng tượng thời xưa đò ngang cách trở, xe cộ không có, lấy chồng xa là mất luôn đường về.

 

                Lấy vợ thì lấy liền tay

        Chớ để lâu ngày hàng xóm gièm pha

 

Sức mạnh dư luận thời xưa ghê thật? Mà tính dân mình hay nhòm ngó nên đã đi hỏi vợ mà không cưới ngay thì dễ sinh điều dị nghị.

 

                  Ra đi mẹ có dặn dò

         Đừng đi nước mặn mà hà ăn chân

                  Chớ nghe tiếng ngọt lời ngon 

         Sa chân lỡ bước, bà con chê cười 

 

Lời khuyên dành cho các cô gái mới lớn không bao giờ cũ, kỵ nhất là những lời đường mật rót vào tai, dễ nhắm mắt đưa chân vào nơi sa ngã.

 

              Chiều chiều ra đứng ngõ sau

        Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều 

               Tai nghe bìm bịp kêu chiều

        Bâng khuâng nhớ mẹ, chín chiều ruột đau

 

Ai biểu lấy chồng xa? Cứ nghĩ từ giờ đến khi cha mẹ mất còn mấy lần gặp nữa thì ruột nào mà chẳng đau ko những 9 mà tới 10 chiều?

 

                Chim đa đa đậu nhánh đa đa

         Chồng gần không lấy, lại lấy chồng xa

                 Lỡ mai cha yếu mẹ già

         Chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng?

 

Đúng là lấy chồng xa ngày xưa thảm thật sự. Một bước ra đi xa mẹ xa cha là đi luôn không có ngày về. May là ngày nay không còn cảnh đó nữa. 

 

               Gió đưa bụi chuối sau hè 

              Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ 

 

Khi đã mê nhân tình, quên nhân nghĩa thì một bè con thơ cũng bỏ chứ đừng nói người vợ đầu ấp tay gối. Sức mạnh của tiểu tam là có thật! 

 

               Ví dầu tình bậu muốn thôi

             Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra

 

Cái này mới ác nè. Đã muốn bỏ vợ lại còn đi gieo tiếng xấu cho vợ để lấy cớ bỏ nữa. Ăn ở sao mà đoản hậu. Chồng vậy bỏ sói nó tha cho rồi.

 

Trong một hồi tôi “bê” các câu ca dao tả đủ các tình huống từ lúc yêu  nhau, cưới nhau, sống với nhau, và cả trong trường hợp xấu nhất là ... bỏ nhau nữa. Mong là độc giả sẽ thưởng thức được cái đẹp và đa dạng của ca dao miền quê Việt của chúng ta.

 

Nguyễn Lễ

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.