Hôm nay,  

Tổ Bồ Đề Đạt Ma Bodhidharma

29/03/202400:00:00(Xem: 749)

bo de dat ma
Bồ-đề Đạt-ma.
 
Chùa Linh Sơn ở Joinville Le Pont của chúng tôi, bên dưới chánh điện là một phòng sinh hoạt Phật sự khá khang trang và rộng rãi dành cho các em oanh vũ gia đình Phật tử Quảng Đức. Các em tới học Phật pháp, tập hát, học giáo lý và cùng làm văn nghệ.
  
Trên tường chính diện có treo một tấm tranh lớn như bằng hai cái chiếu, chiếm gần hết một phần tường. Trong tranh là cảnh biển trời bao la xanh xanh vây quanh, tọa lạc ở gần giữa là hình tổ Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc giầy trên tích trượng vắt vẻo trên vai. Ngài đang thong dong du hành vô ngại đầy an bình.
  
Tất cả vẻ hài hòa tươi sáng của người và cảnh như lôi kéo sự chú ý khá đặc biệt của các oanh vũ Phật tử. Ngoài giờ học tập, chúng luôn tụ tập ở trước hình tổ và chỉ trỏ đố nhau, xem tổ đang đi đâu?
  
Tổ đang đi hè ở biển đó.
  
Tổ làm mất đâu một chiếc giầy rồi?
  
Tổ đang đi về Ấn Độ đó… có một lần thầy đã giảng như vậy.
  
Ôi, sai bét, đi về Ấn Độ thì đi máy bay chớ đi bộ được sao?
  
Ơ… tổ đi với pháp thần thông này!
  
Đó là những câu chuyện hồn nhiên xung quanh hình ảnh tổ quảy giầy trên tích trượng đi thong dong trên mặt nước.
  
Tổ là ai?
  
Thưa, đó là đức Bồ Đề Đạt Ma, Bodhidharma, tổ thứ 28, sau tổ Maha Ca Diếp. Ngài sang Trung Quốc vào đời Lương Vũ Đế (502-547). Tổ Bồ Đề Đạt Ma tiếp xúc với vua Vũ Đế, thấy vua chỉ hào hứng xây chùa mà không mấy chuyên tâm đi vào tâm đạo. Mặc dù việc xây chùa thời đó cũng giúp đạo Phật phát triển rực rỡ ở Trung Hoa (theo thầy Thích Quảng Độ giảng dậy).
  
Một hôm Lương Vũ Đế hỏi tổ:
  
“Trẫm xây cất rất nhiều chùa để hoằng dương chính pháp, vậy trẫm có công đức không?”
  
Tổ trả lời:
  
“Không, ngài không có tí nào.”
  
Vua hỏi tại sao lại vậy? Tổ giải thích rõ ràng:
  
“Công đức tự tánh sanh ra, đến vô lượng, còn công đức của vua, có mưu đồ, tức là vô lậu, rồi sẽ hết.
  
Quả là đúng vậy vì vua Vũ Đế có mưu đồ khoe khoang nên không ngộ được đạo. Tổ Bồ Đề Đạt Ma bỏ đi tới nước Ngụy, ngài ngồi nhìn vô vách núi tu thiền, quán chiếu sự vật, quán chiếu tâm bình lặng.
  
Xẩy tới có ngài Thần Quang đi tới, nhìn, gặp và biết đây là một vị tổ sư. Ngài Thần Quang tới gần chỗ tổ ngồi thiền và quán chiếu. Ngài Thần Quang quỳ trên tuyết lạnh suốt nửa ngày, tuyết rơi dầy và ngập tới gối. Tổ mới quay lại hỏi ngài Thần Quang:
  
“Ông ngồi đó làm chi?”
  
“Con muốn hỏi ngài về giáo pháp của Như Lai.”
  

“Giáo pháp của Như Lai ngộ và lưu truyền đã lâu đời, ông quỳ ở đây vài tiếng đống hồ làm sao thấm được giáo pháp Như Lai?”
  
Ngài Thần Quang liền vô chùa mượn được con dao và chặt phăng một cánh tay mình để chứng tỏ quyết tâm cầu học. Việc từ bỏ cánh tay là bầy tỏ tâm ý từ bỏ sự nắm bắt, vơ vào phần mình các của cải, các sự việc thế gian…
  
Thầy Thích Pháp Hòa mới khơi lại và giảng dậy sự việc của ngài Thần Quang cho Phật tử Việt Nam ở Thái Lan ngày 8-03-2024 mới đây. Thầy giảng việc chặt bỏ một cánh tay là ẩn dụ dứt khoát tách rời những phiền muộn xung quanh trong cuộc sống hằng ngày.
  
Trở lại với việc ngài Thần Quang khi xưa. Ngài được tổ dậy là:
  
“Pháp ấn Như Lai tự trong thâm tâm là tiến tới chỗ không.”
  
Sau thuyết giảng, tổ truyền giáo pháp cho ngài Thần Quang, gồm: Ấn, Y, Bát, một bộ kinh lăng già, một bài kệ. Ngài Thần Quang tức là tổ Huệ Khả.
  
Ít lâu sau, tổ Bồ Đề Đạt Ma tịch ở Trung Hoa. Sau này, tổ Huệ Khả, tức là ngài Thần Quang chợt một lần trông thấy thầy mình đi trên biển, vai quảy tích trượng có đeo một chiếc giầy, ngài đi thong dong trong tĩnh lặng yên ổn. Ngài Huệ Khả mới hỏi tổ đi đâu, tổ trả lời:
  
“Ta đi về Ấn Độ!”
  
Ngài Huệ Khả về tâu sự việc với vua. Vua cho mở quan tài của tổ và người ta không còn thấy tổ đâu nữa mà chỉ còn một chiếc giầy.
  
Đời sau, người ta lấy hình ảnh đặc trưng này của tổ mà tạc tượng hay họa hình ngài ở nhà tổ của các chùa, để trân trọng tiêu biểu cho phái thiền tông do ngài sáng lập.
  
Người đời sau cũng giải thích là qua quá trình thiền quán giải thoát của tổ, tổ đã vượt qua, vượt thoát những cảm nhận thường tình của thế gian.
  
Thế gian cho là giầy dép phải luôn luôn có đôi. Nhưng với người ở ngoài cảm nhận, thì 2 hay 1 là không quan trọng, không lưu ý… không để tâm.
  
Cũng trong bát nhã tâm kinh, có viết:
  
“Sắc tức thị không / Không tức thị sắc”.
  
Trong đạo Phật, đây là một nhận xét thẳng thắn, đúng không gì bằng. Khi tâm đạo vượt lên, không cần suy nghĩ, vì thực chất các pháp không là một thực thể, một tập hợp không phân biệt, không thêm không bớt, không đủ không thiếu… Khi hành giả đã vượt thoát ra ngoài thói lề thế gian, cũng là lúc hành giả đến với đại Xả và đại Bi. Điều cảm nhận này thoát đến thật gần với ý niệm “Vinh danh thiên chúa trên trời, bằng an dưới thế cho người thiện tâm.”
 
– Chúc Thanh
Paris, mars avril 2024
 
(Theo Trang Nghiêm Tịnh Độ A Di Đà do Trúc Thiên lược dịch). 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuần này tôi trân trọng giới thiệu Đỗ Kh. Nhà văn Đỗ Kh., hẳn không xa lạ gì với người yêu văn chương tiếng Việt, ở hải ngoại nói riêng, trong nước nó chung. Ba mươi bốn năm trước, Đỗ Kh. (lúc bấy giờ ông còn ký bút hiệu Đỗ Khiêm) là tác giả đầu tiên tôi chọn để trình làng nhà xuất bản Tân Thư do tôi chủ trương. CÂY GẬY LÀM MƯA cũng là tác phẩm đầu tiên tác giả này đến với thế giới văn chương tiếng việt. Ngoài CGLM, Tân Thư còn in của ông một tập truyện nữa, KHÔNG KHÍ THỜI CHƯA CHIẾN. Với bút pháp rất riêng cộng kiến thức và trải nghiệm sâu rộng qua những chuyến đi khắp mọi nơi trên hành tinh này, Đỗ Kh. cho chúng ta những bài viết lý thú.
Mặt trời như chiếc nong đỏ ối sắp chạm mái ngói phủ rêu của dãy phố cổ. Bức tường bên trái loang lổ, tróc lở, chồng chéo những dòng chữ thô tục cạnh các bộ phận sinh dục nam nữ đủ cỡ đủ kiểu vẽ bằng than hoặc mảnh gạch vỡ. Bức tường thấp, có chiếc cổng gỗ đã mất hẳn màu sơn, xiêu vẹo, quanh năm nằm trong vị thế mở ngõ. Chiếc cổng dẫn vào ngôi miếu nhỏ. Bên trong miếu, trên bệ thờ bằng xi măng hai ba bài vị chẳng hiểu viết gì, chẳng biết thờ ai. Trước bài vị, lư hương chỉ toàn chân nhang. Từ lâu không còn ai đến đây hương khói, ngôi miếu đã biến thành giang sơn riêng của dơi, chuột cùng các loại côn trùng. Cạnh ngôi miếu, một tàn cổ thụ rậm lá với những rễ phụ chảy thõng thượt, bò ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1994, dưới thời Bill Clinton. Khởi từ dấu mốc đó Việt Nam dần dần thân thiện hơn với người anh em “sen đầm đế quốc” này, thời kỳ ngăn sông cách chợ đã được khai thông, nhiều người xuất ngoại thăm thân nhân, du lịch hoặc công tác. Giới văn nghệ sĩ không ngoại lệ. Thuở đó gần như tháng nào tôi cũng đón ít nhất một văn, thi, nhạc, họa… sĩ. Phải chăng tại fake news, một người nhà quê như tôi bỗng biến thành “tay chơi” có số má dưới mắt nhìn các vị cầm cọ, cầm bút trong nước?
Hầu hết mọi người già thường mắc phải chứng quên những chuyện gần, nhưng lại nhớ những chuyện xưa, có khi hàng sáu bảy chục năm trước. May mắn (hay xui xẻo?), tôi có một trí nhớ khá tốt, dù gần hay xa tôi đều không quên. Tuy nhiên tôi lại vướng phải nhược điểm là chỉ nhớ sự việc nhưng lại không nhớ thời điểm. Nhược điểm này theo tôi từ ngày thơ trẻ cho đến hôm nay. Khác hẳn một vài người quen, chả hạn nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh có một trí nhớ xuất chúng về những con số. Số điện thoại, số nhà của ai đó, chỉ nhìn hoặc nghe qua một lần là ghim ngay vào não, nhiều năm sau, hỏi, anh trả lời vanh vách. Nhà văn Cung Tích Biền cũng không kém, xuất thân là giáo sư dạy sử, ngoài những chi tiết liên quan đến chuyên môn như tên, đế hiệu các vị vua, ngày lên ngôi, ngày chết, những hành trạng của họ suốt thời gian trị vì, và mọi biến cố lịch sử… trải dài từ thời lập quốc, bốn nghìn năm trước, đến bây giờ. Như Hoàng Khởi Phong, anh nhớ rõ mọi con số, kể cả những chi tiết liên quan.
Hai hôm trước một cô em, cũng cầm bút, đến thăm, nhân tiện đề nghị, nếu sức khỏe không cho phép tôi gõ chữ thì cô ấy sẽ giúp, tôi chỉ cần nói qua băng ghi âm, cô em chép lại rồi giao cho tôi nhuận sắc. Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, qua trao đổi riêng, vẫn nhiều lần khuyên tôi nên viết hồi ký. Theo hai người, do một thời chủ trương tạp chí Hợp Lưu, tôi có điều kiện tiếp cận và rành rất nhiều chuyện của giới văn nghệ sĩ cũng như văn học hải ngoại lẫn trong nước, nếu tôi không làm thì rồi mọi sự cố sẽ trôi vào lãng quên, thiệt thòi cho văn học Việt Nam, uổng lắm.
Tuổi già thường sống với dĩ vãng. Nhiều chuyện tưởng đã vĩnh viễn ra khỏi trí nhớ, thế mà bất chợt bỗng hiện về, có khi mồn một từng chi tiết nhỏ, tựa mới xảy ra hôm qua, hôm kia, có khi nhập nhòa hư thực bất phân. Chuyện này không lâu, chỉ 23 mươi năm, trước một năm ngày tôi bị tai biến. Nhớ, vì có một chi tiết, lạc đề, nhưng vui.
Trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi thích nhất nhân vật Hồng Thất Công, bang chủ Cái Bang (kế thừa là Kiều Phong), ông già tính khí trẻ con. Tôi thích vì rất hợp tạng. Nói cách khác, tôi rất sợ những chuyện nghiêm túc. Ở đây bạn đọc sẽ bắt gặp mọi chuyện: chính trị, xã hội, kinh tế, văn chương, thi ca, nghệ thuật…, kể cả những chuyện tầm phào như gái trai, rượu chè hoang đàng nhăng nhít... Nói gọn, mảnh vườn này luôn rộng cửa, bạn đọc hãy cùng tôi rong chơi.
Trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi thích nhất nhân vật Hồng Thất Công, bang chủ Cái Bang (kế thừa là Kiều Phong), ông già tính khí trẻ con. Tôi thích vì rất hợp tạng. Nói cách khác, tôi rất sợ những chuyện nghiêm túc. Ở đây bạn đọc sẽ bắt gặp mọi chuyện: chính trị, xã hội, kinh tế, văn chương, thi ca, nghệ thuật…, kể cả những chuyện tầm phào như gái trai, rượu chè hoang đàng nhăng nhít... Nói gọn, mảnh vườn "Ba Điều Bốn Chuyện" này luôn rộng cửa, bạn đọc hãy cùng tôi rong chơi.