Hôm nay,  

Kissinger và ý nghĩa đích thực của tình trạng hòa hoãn

18/03/202408:47:00(Xem: 662)

kimthem-- Tái tạo chiến lược Chiến tranh Lạnh cho việc cạnh tranh với Trung Quốc.



Rất ít từ nào được liên kết một cách chặt chẽ với Henry Kissinger quá cố hơn là "hòa hoãn". Thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng trong ngành ngoại giao vào đầu những năm 1900, khi vị đại sứ Pháp tại Đức đã cố gắng - và thất bại - để cải thiện mối quan hệ đang xấu đi của đất nước của ông với Berlin, và vào năm 1912, khi các nhà ngoại giao Anh cố gắng làm điều tương tự.
    Nhưng tình trạng hòa hoãn chỉ trở nên nổi tiếng trong phạm vi quốc tế vào cuối những năm 1960 và 1970, khi Kissinger, đầu tiên là cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ và sau đó cũng là ngoại trưởng Hoa Kỳ, đi tiên phong trong chính sách trở thành tên ông: Giảm bớt các việc căng thẳng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ.
    Không nên nhầm lẫn việc hòa hoãn với tình thân hữu. Đó không phải là việc thiết lập một tình bạn với Moscow mà là việc giảm thiểu các rủi ro mà một cuộc chiến tranh lạnh sẽ trở thành nóng. Kissinger giải thích trong hồi ký của mình: "Hoa Kỳ và Liên Xô là đối thủ về ý thức hệ. Giảm căng thẳng không thể thay đổi điều đó. Thời đại hạt nhân buộc chúng ta phải cùng tồn tại. Các cuộc thập tự chinh về hùng biện cũng không thể thay đổi điều đó".
    Đối với Kissinger, hòa hoãn là một con đường trung dung giữa sự xâm lược đã dẫn đến Đệ nhất Thế chiến, "khi châu Âu, bất chấp sự tồn tại của một sự cân bằng quân sự, cuốn hút vào trong một cuộc chiến không ai muốn" và sự nhân nhượng mà ông tin rằng đã dẫn đến Đệ nhị Thế chiến, "khi các nền dân chủ không hiểu được âm mưu của một kẻ xâm lược toàn trị".
    Để theo đuổi việc hòa hoãn, Kissinger tìm cách kết giao với Liên Xô trong nhiều vấn đề, bao gồm việc kiểm soát vũ khí và thương mại. Ông cố gắng thiết lập "sự liên kết", một từ khóa khác của thời đại, giữa những thứ mà Liên Xô dường như muốn (ví dụ, tiếp cận tốt hơn với nền công nghệ Mỹ) và những thứ mà Hoa Kỳ biết họ muốn (ví dụ, hỗ trợ cho việc tự thoát ra khỏi Việt Nam).
    Đồng thời, Kissinger sẵn sàng chiến đấu bất cứ khi nào ông nhận ra rằng Liên Xô đang làm việc để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của họ, từ Trung Đông đến Nam Phi. Nói cách khác và như chính Kissinger đã nói, hòa hoãn có nghĩa là chấp nhận "cả răn đe và cộng sinh, cả ngăn chặn và nỗ lực giảm căng thẳng".
    Nếu tình cảm thực dụng đó cộng hưởng trong năm thập niên sau, đó là bởi vì các nhà hoạch định chính sách ở Washington dường như đã đi đến một kết luận tương tự về Trung Quốc, quốc gia mà Tổng thống Mỹ Joe Biden và toán cộng sự về an ninh quốc gia dường như đã sẵn sàng thử một phiên bản của riêng mình về hòa hoãn.
    Ông Biden nói với nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình ở California vào tháng 11: “Chúng ta phải đảm bảo rằng, cạnh tranh không biến thành xung đột, chúng ta cũng có trách nhiệm với dân chúng và thế giới để hợp tác khi chúng ta thấy nó có lợi ích của chúng ta để làm như vậy." Jake Sullivan, Cố vấn An ninh Quốc gia của Biden, cũng đưa ra một quan điểm tương tự trong bài tiểu luận trên trang báo này vào năm ngoái. Ông viết: "Cuộc thi tài thực sự mang tính toàn cầu, nhưng không phải là trò chơi tổng bằng không. Những thách thức chung mà hai bên phải đối mặt là chưa từng có". Để diễn giải lời của Kissinger, Hoa Kỳ và Trung Quốc là những đối thủ chủ yếu. Nhưng kỷ nguyên hạt nhân và biến đổi khí hậu, chưa kể đến trí tuệ nhân tạo, buộc cả hai phải cùng cộng sinh.
    Nếu việc hòa hoãn đang tạo ra sự trở lại trong toàn diện nhưng chỉ với cái tên, vậy thì tại sao nó lại lỗi thời? Sau cái chết của Kissinger vào tháng 11/2023, giới chỉ trích ông thuộc cánh tả đã nhanh chóng lặp lại danh sách các cáo trạng cũ của họ, từ vụ ném bom thường dân ở Campuchia cho đến việc ủng hộ các nhà độc tài ở Chile, Pakistan và các nơi khác.
    Đối với giới cánh tả, Kissinger đã nhân cách hóa một chính sách thực dụng máu lạnh mà nó đặt nhân quyền ở Thế giới thứ ba phụ thuộc vào việc ngăn chặn. Đây là khía cạnh của việc hòa hoãn mà Tổng thống Mỹ Jimmy Carter phản đối. Nhưng gần đây, người ta ít nghe nói về những lời chỉ trích đầy bảo thủ đối với Kissinger, họ cho rằng chính sách của Kissinger đồng nghĩa với sự nhân nhượng. Là thống đốc tiểu bang California, Ronald Reagan đã dành những năm 1970 để chỉ trích việc hòa hoãn như là một "con đường một chiều mà Liên Xô đã sử dụng để theo đuổi các mục tiêu của mình". Ông chế nhạo Kissinger là đã chấp nhận khi Liên Xô khai thác về sự hòa hoãn một cách đạo đức giả, chẳng hạn như khi họ và đồng minh Cuba giành được thế thượng phong ở Angola trong thời hậu thuộc địa.
    Trong lần tranh cử tổng thống đầu tiên hồi năm 1976, Reagan nhiều lần cam kết sẽ loại bỏ chính sách nếu ông đắc cử. Ông tuyên bố vào tháng Ba năm đó: "Dưới thời các ông Kissinger và Ford, quốc gia này đã trở thành hạng nhì về sức mạnh quân sự trong một thế giới mà  nguy hiểm - nếu không muốn nói là do định mệnh an bài - là đứng loại tốt vào hàng thứ hai."
    Reagan hầu như không phải là một ngoại lệ. Vào thời điểm mà ông phát biểu, giới diều hâu trong cả chính phủ đã chán ngấy với phương cách của Kissinger. Theo lời của Thượng nghị sĩ Clifford Case ở New Jersey, Đảng Cộng hòa thường phàn nàn quen thuộc rằng: "những thắng lợi đạt được trong việc giảm căng thẳng đã tăng tích luỹ cho phía Liên Xô." Vượt qua dị biệt về chính kiến, Robert Byrd, Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ của West Virginia đã chọc giận Kissinger bằng cách cáo buộc Kissinger đã "đặt niềm tin to tát nơi nước Nga Cộng sản" và thông qua việc hòa hoãn, "ôm ấp" lấy Moscow. Trong khi đó, quân đội Mỹ cho rằng việc theo đuổi hòa hoãn là thừa nhận thất bại. Năm 1976, Elmo Zumwalt, người vừa hồi hưu trong cương vị Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ, lập luận là Kissinger tin rằng Hoa Kỳ đã "vượt qua đỉnh cao lịch sử như rất nhiều nền văn minh trước đó". Cũng giống như sự nhân nhượng, vốn nó bắt đầu như một thuật ngữ đáng kính, đã trở nên tai tiếng vào năm 1938, việc hòa hoãn đã trở thành một từ bẩn thỉu - và nó là như vậy ngay cả trước khi Kissinger rời khỏi nhiệm sở.
    Tuy nhiên, việc hòa hoãn trong những năm 1970 không giống như sự xoa dịu trong những năm 1930, cả về cách thức hoạt động và trong kết quả mà nó tạo ra. Không giống như nỗ lực của Anh và Pháp nhằm mua chuộc Adolf Hitler bằng những nhượng bộ lãnh thổ, Kissinger và các tổng thống của ông ta cố gắng kiềm chế sự bành trướng của đối thủ. Và không giống như việc xoa dịu, hòa hoãn đã tránh một cuộc thế chiến một cách thành công.
    Viết vào giữa những năm 1980, nhà khoa học chính trị Harvey Starr đã đếm được sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ giữa các hành vi hợp tác và xung đột trong mối quan hệ Mỹ - Liên Xô dưới thời chính quyền Nixon. Số lượng các cuộc xung đột dựa trên nhà nước thấp hơn trong thời của Kissinger (1969-1977) so với những năm sau đó và ngay trước đó.
    Nửa thế kỷ sau, khi Washington thích nghi với thực tế của một cuộc chiến tranh lạnh mới, sự hòa hoãn một lần nữa có thể bị trật rầy bởi phe diều hâu. Các chính trị gia đảng Cộng hòa thích miêu tả đối thủ của họ là mềm mỏng với Trung Quốc, giống như những người tiền nhiệm của họ đã miêu tả đối thủ của họ là mềm mỏng với Liên Xô trong những năm 1970. Chẳng hạn như Tom Cotton, Thượng nghị sĩ của tiểu bang Arkansas, tuyên bố rằng, Biden đang "bảo vệ quá mức và xoa dịu những người cộng sản Trung Quốc". Chiến dịch tranh cử của cựu Tổng thống Donald Trump cáo buộc Biden "yếu đuối" "tiếp tục tạo thêm gây hấn" đối với Đài Loan.
    Những cáo buộc này không có gì đáng ngạc nhiên; luôn luôn thu hút đối với đảng Cộng hòa để làm sống lại tinh thần của Reagan và lập lại lời chỉ trích về hòa hoãn. Nhưng có một mối nguy hiểm là cả hai đảng đang hiểu sai về những bài học của những năm 1970.
    Khi ủng hộ việc ngăn chặn Trung Quốc không khoan nhượng, đảng Cộng hòa có thể đang đánh giá cao khả năng chiếm ưu thế của Mỹ trong trường hợp xảy ra đối đầu. Để tránh tình trạng leo thang, chính quyền Biden có thể đang đánh giá thấp tầm quan trọng của việc răn đe như một thành phần của việc hòa hoãn.
    Bản chất của chiến lược của Kissinger là kết hợp sự can dự và ngăn chặn theo một cách được tư vấn tốt đẹp dựa trên tình trạng của nền kinh tế Mỹ và dư luận Mỹ trong những năm 1970, hoặc điều mà Liên Xô thích gọi là "tương quan lực lượng". Một sự kết hợp tương tự là cần thiết cho ngày nay, đặc biệt là khi mối tương quan của các lực lượng thuận lợi hơn cho Bắc Kinh so với Moscow.
 
Bên bờ vực thm
 
Ngày nay, giới phê bình khoa bảng của Kissinger tinh tế hơn không phàn nàn rằng Liên Xô đã thoát ra khỏi tình trạng hòa hoãn nhiều hơn Hoa Kỳ. Thay vào đó, họ lập luận rằng Kissinger đã nhiều lần sai phạm khi nhìn mọi vấn đề qua lăng kính của Chiến tranh Lạnh và ứng xử với mọi cuộc khủng hoảng như thể nó mang tính quyết định đối với cuộc đấu tranh chống lại Moscow.
    Như nhà sử học Jussi Hanhimaki đã viết trong một bài cáo buộc dài như một cuốn sách, Kissinger cho rằng đó là hiển nhiên "khi kiềm chế sức mạnh của Liên Xô - nếu không phải là ý thức hệ cộng sản - phải là mục tiêu chủ yếu trong chính sách đối ngoại của Mỹ".
    Bài phê bình này phản ánh những nỗ lực mà các nhà sử học đã thực hiện trong những năm gần đây để tập trung vào những đau khổ của những người dân sống ở các quốc gia bị mắc kẹt trong cuộc chiến tranh lạnh. Nhưng nó đánh giá thấp về mức độ đe dọa của Liên Xô đối với Hoa Kỳ ở Thế giới thứ ba. Bất kể đại sứ Liên Xô xảo quyệt Anatoly Dobrynin có thể nói gì với Kissinger, Điện Kremlin không coi việc hòa hoãn là bất cứ điều gì khác ngoài vỏ bọc cho chiến lược giành lợi thế trước Washington.
    Như trong một báo cáo năm 1971 gửi cho Bộ Chính trị nêu rõ, Liên Xô muốn Hoa Kỳ "tiến hành các vấn đề quốc tế của mình theo cách không tạo ra nguy cơ của việc đối đầu trực tiếp", nhưng chỉ vì làm như vậy có thể khiến cho Washington "nhận ra được sự cần thiết của phương Tây để thực hiện lợi ích của Liên Xô". Để đạt được mục tiêu này, báo cáo kêu gọi Bộ Chính trị "tiếp tục sử dụng lợi ích khách quan của chính phủ Mỹ trong việc duy trì liên lạc và tổ chức các cuộc đàm phán với Liên Xô".
    Kissinger không biết gì về tài liệu này, nhưng nó sẽ không làm ông ngạc nhiên. Ông không có ảo tưởng về trò chơi đang được bày ra bởi các bậc thầy của Dobrynin. Rốt cuộc, Liên Xô cũng tuyên bố công khai vào năm 1975 rằng việc hòa hoãn không ngăn cản họ tiếp tục "ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc" chống lại "hiện trạng về chính trị xã hội".
    Như Kissinger đã nói với nhà bình luận Joe Alsop vào năm 1970, "Nếu Liên Xô nghĩ rằng một thỏa thuận về tình trạng quân bình hạt nhân sẽ phục vụ cho lợi ích của họ, một mặt, họ hoàn toàn có khả năng đạt được một thỏa thuận như vậy, trong khi mặt khác, họ cố gắng cắt cuống bao tử của chúng tôi."
    Tuy nhiên, mặc dù Kissinger biết rằng, Điện Kremlin có động cơ thầm kín, ông vẫn tiến hành việc hòa hoãn vì một lý do đơn giản: lựa chọn tương ưng bảo thủ, quay trở lại chính sách bên miệng hố của chiến tranh trong những năm 1950 và 1960, nó có nguy cơ của một cuộc chiến tận thế bằng hạt nhân. Kissinger nói với cử toạ ở Minneapolis vào năm 1975: "Không có lựa chọn nào khác cho việc cộng sinh. Cả Liên Xô và Mỹ đều có khả năng phá hủy đời sống văn minh". Do đó, việc hòa hoãn là một mệnh lệnh đạo đức. Kissinger lập luận vào năm sau: "Chúng ta có một nghĩa vụ lịch sử để cam kết với Liên Xô và đẩy lùi bóng tối của thảm họa về hạt nhân."
    Những quan tâm này không khiến cho Kissinger trở thành người ủng hộ cho việc giải trừ vũ khí hạt nhân. Sau khi  nổi danh như là một trí thức của công chúng với cuốn sách có tựa đề Các Vũ khí hạt nhân và Chính sách đối ngoại, ông vẫn còn quan tâm đến khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh hạt nhân hạn chế cũng như ông kinh hoàng trước viễn cảnh của một cuộc chiến toàn diện. Vào mùa xuân năm 1974, thậm chí Kissinger còn yêu cầu Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đề ra một phản ứng về hạt nhân hạn chế đối với một cuộc xâm lược giả định của Liên Xô tại Iran.
    Nhưng khi ông được tường trình về bản dự thảo kế hoạch vài tuần sau đó, ông ta rất kinh hoàng. Lầu Năm Góc đề xuất bắn khoảng 200 vũ khí hạt nhân vào các cơ sở quân sự của Liên Xô gần biên giới Iran. Kissinger hét lên: "Các anh mất trí rồi sao? Đây là một lựa chọn hạn chế sao?"
    Khi các tướng lĩnh trở lại kế hoạch chỉ sử dụng một quả nguyên tử và hai vũ khí hạt nhân để làm nổ tung hai con đường từ lãnh thổ của Liên Xô vào đến Iran, ông đã hoài nghi. "Đây là cuộc tấn công hạt nhân thuôc loại nào?" ông hỏi. Một tổng thống Mỹ sử dụng quá ít vũ khí sẽ bị Điện Kremlin coi là "gà". Vấn đề, như ông biết rõ, là không bao giờ có thể chắc chắn rằng Liên Xô sẽ phản ứng một cách hạn chế đối với bất kỳ cuộc tấn công hạt nhân nào của Mỹ.
    Quan điểm của Kissinger về vũ khí hạt nhân đã khiến những giới bảo thủ chỉ trích ông, đặc biệt là những người trong Lầu Năm Góc. Họ đặc biệt tức giận với phương cách của Kissinger trong các cuộc đàm phán hạn chế về vũ khí chiến lược (the Strategic Arms Limitation Talks, SALT) bắt đầu vào tháng 11 năm 1969 và mở đường cho việc thỏa thuận kiểm soát vũ khí quan trọng đầu tiên giữa Mỹ và Liên Xô. Vào tháng 9 năm 1975, Cơ quan Tình báo Quốc phòng đã lưu hành một bảng ước tính tình báo dài mười trang, trong đó khẳng định rằng, Liên Xô đã lừa đảo một cách đạo đức giả trong các cam kết về SALT của mình để đạt được ưu thế hạt nhân.
    Cuộc tranh luận lại bùng lên trong những ngày cuối cùng của chính quyền Ford, khi các báo cáo của CIA và Cơ quan Tình báo Quốc phòng cho rằng, Moscow đang tìm kiếm sự vượt trội,  không phải là ngang bằng, khi nói đến vũ khí hạt nhân. Các quan chức trong chính phủ tuyên bố rằng, Kissinger biết điều này nhưng đã chọn cách là cho nó thông qua.
    Những lời chỉ trích này không hoàn toàn sai. Liên Xô đã đạt được sự cân bằng về số lượng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (intercontinental ballistic missiles, ICBM) vào cuối những năm 1960 và dẫn đầu rất lớn về megaton vào năm 1970. Một số ICBM này mang theo các phương tiện tái nhập trong mục tiêu lớn và độc lập, mà nó có thể bắn một cụm đầu đạn vào nhiều mục tiêu.
    Nhưng Hoa Kỳ vẫn giữ được lợi thế là năm chọi một trong các tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm vào năm 1977. Lợi thế của Mỹ về vũ khí hạt nhân mang theo máy bay ném bom thậm chí còn lớn hơn: 11 so với một. Và Moscow chưa bao giờ tiến gần đến việc có đủ tên lửa đạn đạo để thực hiện một cuộc tấn công chống lại các gia sản về hạt nhân của Mỹ mà nó khiến Washington không thể đáp trả bằng cuộc tấn công bằng hạt nhân.
    Thật ra, các cuộc phỏng vấn với các sĩ quan cao cấp của Liên Xô sau Chiến tranh Lạnh cho thấy vào đầu những năm 1970, giới lãnh đạo quân sự đã bác bỏ quan điểm cho rằng, Liên Xô có thể  thắng trong một cuộc chiến tranh hạt nhân. Sự phát triển tiếp theo của kho vũ khí hạt nhân của đất nước chủ yếu là kết quả của tình trạng bất biến từ phía tổ hợp công nghiệp quân sự.
    Kissinger đã chia sẻ quan điểm của các đối tác Liên Xô trong một mức độ. Quan điểm của ông từ những năm 1950 là một cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện là quá thảm khốc để cho bất cứ ai thắng trận. Do đó, các chi tiết về quy mô và chất lượng của các kho vũ khí hạt nhân của hai siêu cường khiến cho ông quan tâm ít hơn nhiều so với cách ngoại giao về hòa hoãn mà nó có thể làm giảm đi nguy cơ về cuộc chiến tận thế.
    Ông cũng tin rằng, sự ngang bằng về số lượng hạt nhân của Liên Xô cuối cùng sẽ chứng minh là không bền vững, vì nền kinh tế của Liên Xô nhỏ hơn nhiều so với nền kinh tế của Hoa Kỳ. "Cơ sở kinh tế và công nghệ làm nền tảng cho sức mạnh quân sự phương Tây vẫn vượt trội về quy mô và khả năng đổi mới".
    Trong một bài phát biểu năm 1976, Kissinger nói thêm: "Chúng ta không có gì phải lo sợ về việc cạnh tranh: Nếu có một cuộc cạnh tranh quân sự, chúng ta có sức mạnh để bảo vệ lợi ích của mình. Nếu có một cuộc cạnh tranh kinh tế, chúng ta đã thắng từ lâu".
 
Thua trong trận, nhưng thắng trong cuộc chiến
 
Giới bảo thủ phản đối Kissinger vì những lý do vượt ra ngoài sự khoan dung của ông đối với sự ngang bằng về hạt nhân của Liên Xô. Phe diều hâu cũng lập luận rằng, Kissinger đã quá sẵn sàng để chấp nhận đặc điểm bất công của hệ thống Xô viết - mặt trái của lời phàn nàn của những người theo chủ thuyết tự do rằng ông đã quá sẵn sàng để dung thứ cho đặc điểm bất công của các chế độ độc tài theo cánh hữu.
    Vấn đề này đã trở nên nổi bật về những hạn chế của Liên Xô đối với việc di cư của người Do Thái và đối xử với những người bất đồng chính kiến của Liên Xô, chẳng hạn như tác giả Aleksandr Solzhenitsyn. Khi Solzhenitsyn đến Hoa Kỳ trong thập niên 1970 (sau khi bị trục xuất khỏi Liên Xô), Kissinger đã chọc giận giới bảo thủ bằng cách khuyên Tổng thống Gerald Ford không nên gặp ông Solzhenitsyn.
    Solzhenitsyn trở thành một trong những đối thủ khó chịu nhất của Kissinger. Tiểu thuyết gia này nói vào năm 1975: "Một nền hòa bình bao dung cho bất kỳ hình thức bạo lực tàn bạo nào và bất kỳ liều lượng lớn nào của nó chống lại hàng triệu người, nó không có sự cao cả về đạo đức ngay cả trong thời đại hạt nhân." Ông và giới phê bình bảo thủ khác lập luận rằng, thông qua việc hòa hoãn Kissinger chỉ đơn thuần cho phép mở rộng chủ nghĩa cộng sản Liên Xô. Sự sụp đổ của Sài Gòn năm 1975, Campuchia rơi vào địa ngục của chế độ độc tài cộng sản Pol Pot, sự can thiệp của Cuba - Liên Xô vào cuộc xung đột tại Angola trong thời hậu thuộc địa - những thất bại này và những thất bại địa chính trị khác dường như minh chứng cho tuyên bố của họ.
    Reagan tuyên bố vào năm 1976, khi ông vận động chống lại Ford trong cuộc bầu cử sơ bộ tổng thống của đảng Cộng hòa: "Tôi tin vào hòa bình mà ông Ford nói, cũng nhiều như bất kỳ người nào nói. Nhưng ở những nơi như Angola, Campuchia và Việt Nam, sự bình an mà họ đã biết là sự bình an của nấm mồ. Tất cả những gì tôi có thể thấy là những gì mà các quốc gia khác trên thế giới nhìn thấy: sự sụp đổ của ý chí Mỹ và sự rút lui của sức mạnh Mỹ.”
    Không giống như cáo buộc về tình trạng ưu thế trong hạt nhân của Liên Xô, Kissinger không bao giờ phủ nhận rằng, chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô ở Thế giới thứ ba đặt ra một mối đe dọa đối với sự hòa hoãn và sức mạnh của Mỹ. Ông nói trong một bài phát biểu vào tháng 11/1975: "Thời gian không còn nhiều; việc tiếp tục cho một chính sách can thiệp chắc chắn phải đe dọa các mối quan hệ khác. Chúng ta sẽ linh hoạt và hợp tác trong việc giải quyết các xung đột, . . . Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ cho phép việc hòa hoãn biến thành một sự che đậy lợi thế đơn phương".
    Tuy nhiên, thực tế là trong trường hợp không có được sự ủng hộ của Quốc hội - dù là để bảo vệ cho miền Nam Việt Nam hay Angola - chính quyền Ford không có lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận cho sự bành trướng quân sự của Liên Xô, hoặc ít nhất là chiến thắng của các lực lượng ủy nhiệm của Liên Xô.
    Kissinger nói hồi tháng Mười Hai năm 1975: "Các tranh chấp trong nước của chúng ta đang tước đi khả năng của chúng ta cả trong việc cung cấp các động lực cho sự ôn hòa [của Liên Xô] như trong các hạn chế đối với đạo luật thương mại, cũng như khả năng chống lại các động thái quân sự của Liên Xô như ở Angola."
    Tất nhiên, có thể tranh luận ở mức độ nào mà Kissinger đã hợp lý khi tuyên bố rằng, với sự hỗ trợ liên tục của Quốc hội trong việc viện trợ của Hoa Kỳ, Nam Việt Nam và ngay cả Angola có thể đã thoát ra khỏi được sự kiểm soát của Cộng sản.
    Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, khi Kissinger quan tâm đến việc ngăn chặn sự lan rộng của các hệ thống Xô viết. Ông nói vào năm 1974: "Sự cần thiết cho việc hoà hoãn như chúng ta quan niệm về nó không phản ánh sự tán thành về cấu trúc trong nội địa của Liên Xô. Hoa Kỳ luôn nhìn với sự cảm thông, với sự đánh giá cao, về sự thể hiện tự do tư tưởng trong tất cả các xã hội." Nếu Kissinger từ chối ủng hộ Solzhenitsyn, đó không phải là vì Kissinger khoan dung (ít có thiện cảm bí mật hơn) với mô hình Xô viết. Đó là bởi vì ông tin rằng Washington có thể đạt được nhiều hơn bằng cách duy trì mối quan hệ đang vận hành với Moscow.
    Và trong việc này, Kissinger chắc chắn đã có lý. Bằng cách giảm bớt các căng thẳng cả ở châu Âu và các nơi khác trên thế giới, việc hòa hoãn đã giúp cải thiện cuộc sống của ít nhất một số người dưới sự cai trị của Cộng sản. Việc di cư của người Do Thái ra khỏi Liên Xô tăng lên trong giai đoạn khi Kissinger đặc trách  việc hòa hoãn.
    Sau khi Thượng nghị sĩ Dân chủ Henry "Scoop" Jackson của Washington và giới diều hâu khác trong Quốc hội tìm cách công khai gây áp lực buộc Moscow thả thêm người Do Thái qua việc duy trì thỏa thuận thương mại Mỹ -Xô Viết, việc di cư đã giảm xuống.
    Giới phê bình bảo thủ của Kissinger đã kịch liệt phản đối việc Hoa Kỳ ký các Hiệp định Helsinki vào mùa hè năm 1975, họ lập luận rằng chúng thể hiện cho việc phê chuẩn các cuộc chinh phục của Liên Xô ở châu Âu trong thời hậu chiến.
    Nhưng bằng cách nhận cam kết của các nhà lãnh đạo Liên Xô về việc tôn trọng một số quyền dân sự cơ bản của công dân của họ như một phần của các hiệp định - một cam kết mà họ không có ý định tôn trọng - thỏa thuận cuối cùng đã làm xói mòn tính hợp pháp của viêc cai trị của Liên Xô ở Đông Âu.
    Không có sự thật nào trong số này có thể cứu vãn sự nghiệp của Kissinger trong chính phủ. Ngay sau khi Ford ra đi, Ngoại trưởng của ông cũng vậy, không bao giờ họ trở lại nhiệm sở quan yếu. Nhưng khái niệm chính về chiến lược của Kissinger tiếp tục phát huy thành quả trong nhiều năm sau, bao gồm cả các chỉ trích chính về hòa hoãn: Carter và Reagan.
    Carter đã chỉ trích Nixon, Ford và Kissinger vì không đủ lòng thương cảm trong chủ thuyết hiện thực của họ, nhưng cố vấn an ninh quốc gia của chính ông Carter , Zbigniew Brzezinski, đã thuyết phục ông nên cứng rắn với Moscow. Đến cuối năm 1979, Carter buộc phải cảnh báo Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan, nếu không sẽ phải đối mặt với "hậu quả nghiêm trọng".
    Về phần mình, Reagan cuối cùng đã chấp nhận việc hòa hoãn như là một chính sách của riêng mình trong toàn diện ngoại trừ tên gọi - và thực sự đã vượt xa những gì mà Kissinger đã làm để giảm bớt căng thẳng. Trong việc theo đuổi việc xít lại gần nhau, Reagan đã đồng ý giảm kho vũ khí hạt nhân của Washington xuống một lượng lớn hơn nhiều so với những gì Kissinger nghĩ đã là thận trọng. "Kỷ nguyên Kissinger" không kết thúc khi ông rời chính phủ vào tháng Giêng năm 1977.
    Mặc dù đã bị lãng quên, sự thật này đã được công nhận bởi những người đương thời nhiều tinh ý hơn của Kissinger. Chẳng hạn như nhà bình luận bảo thủ William Safire lưu ý rằng, chính quyền Reagan đã nhanh chóng bị thâm nhập bởi "những người thuộc phe Kissinger" và "những người theo tinh thần hòa hoãn", ngay cả khi bản thân Kissinger bị ngăn chặn.
    Thực ra, chính quyền Reagan đã trở nên quá thích ứng đến mức bây giờ đến lượt Kissinger lại cáo buộc Reagan là quá mềm mỏng, chẳng hạn như trong phản ứng của Reagan trước việc áp đặt tình trạng thiết quân luật ở Ba Lan. Kissinger phản đối các kế hoạch xây dựng một đường ống dẫn khí đốt tự nhiên từ Liên Xô đến Tây Âu với lý do là nó sẽ khiến phương Tây "trở thành đối tượng bị thao túng chính trị nhiều hơn so với hiện nay". (Về sau được phát hiện lời cảnh báo này là tiên đoán.)
    Năm 1987, Nixon và Kissinger đã lên tiếng trong trang xã luận của tờ Los Angeles Times để cảnh báo rằng, việc Reagan sẵn sàng thực hiện một thỏa thuận với Mikhail Gorbachev, nhà lãnh đạo Liên Xô, đã đi quá xa, khi cả hai quốc gia sẽ loại bỏ tất cả vũ khí hạt nhân tầm trung của họ. Đối với lời chỉ trích như vậy, Ngoại trưởng George Shultz đã đưa ra một câu trả lời tiết lộ: “Bây giờ chúng ta đã vượt quá sự hòa hoãn".
 
Giảm căng thẳng 2.0
 
Xét đến những rắc rối mà Hoa Kỳ đang phải đối mặt vào đầu năm 1969, tình trạng hòa hoãn như Kissinger quan niệm về nó là hợp lý. Không thể đánh bại Bắc Việt Nam, bị ảnh hưởng bởi tình trạng vừa lạm phát vừa đình trệ, và phân hoá sâu đậm về mọi thứ, từ quan hệ chủng tộc đến nữ quyền, Washington không thể chơi trò cứng rắn với Moscow.
    Thật vậy, nền kinh tế Mỹ trong những năm 1970 không có điều kiện để duy trì kinh phí quốc phòng tăng trong tổng thể. (Giảm căng thẳng cũng có lý do về tài chính, mặc dù Kissinger hiếm khi đề cập đến vấn đề này.)
    Việc hoà hoãn không có nghĩa là - như giới chỉ trích Kissinger cáo buộc - chấp nhận, tin tưởng hay xoa dịu Liên Xô. Điều đó cũng không có nghĩa là cho phép họ đạt được ưu thế về hạt nhân, kiểm soát thương trực Đông Âu hoặc là một đế chế ở Thế giới thứ ba. Điều đó có nghĩa là nhận ra giới hạn về sức mạnh của Mỹ, giảm nguy cơ chiến tranh nhiệt hạch bằng cách sử dụng kết hợp cả hai chính sách dùng cà rốt và cây gậy, và kéo dài thời gian để cho Mỹ phục hồi.
    Việc này đã vận hành. Đúng vậy, Kissinger đã không đảm bảo "khoảng thời gian thích hợp" giữa việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam và cuộc chinh phục miền Nam của miền Bắc, một khoảng thời gian mà ông hy vọng sẽ đủ dài để hạn chế thiệt hại cho uy tín và thanh danh của Washington.
    Nhưng việc hòa hoãn cho phép Mỹ tập hợp lại các vấn đề trong nước và ổn định chiến lược của Mỹ về Chiến tranh Lạnh. Nền kinh tế Mỹ sớm đổi mới theo những cách mà Liên Xô không bao giờ có thể, tạo ra các tài sản kinh tế và công nghệ cho phép Washington giành chiến thắng trong Chiến tranh Lạnh.
    Giảm căng thẳng cũng cho Liên Xô sợi dây thòng lọng để tự treo cổ tự tử. Được khuyến khích bởi những thành công của họ ở Đông Nam Á và Nam Phi, họ đã thực hiện một loạt các can thiệp sai lầm và tốn kém trong thế giới kém phát triển, mà đỉnh điểm là cuộc xâm lược Afghanistan vào năm 1979.
    Với sự thành công hiếm khi được thừa nhận của việc hòa hoãn trong các điều kiện này, vấn đề đáng để đặt ra liệu là có những bài học nào mà Hoa Kỳ ngày nay có thể học được mà nó có liên quan đến cuộc cạnh tranh với Trung Quốc không. Kissinger chắc chắn tin như vậy.
    Trong khi phát biểu tại Bắc Kinh vào năm 2019, ông tuyên bố rằng Mỹ và Trung Quốc đã "ở chân đồi của một cuộc chiến tranh lạnh". Năm 2020, giữa lòng trận đại dịch COVID -19, Kissinger đã nâng cấp đó thành "lối thoát trên núi”. Và một năm trước khi qua đời, ông cảnh báo rằng, cuộc chiến tranh lạnh mới sẽ nguy hiểm hơn cuộc chiến đầu tiên vì những tiến bộ trong công nghệ, chẳng hạn như về trí tuệ nhân tạo, đe dọa chế tạo vũ khí không chỉ nhanh hơn và chính xác hơn mà còn có tiềm năng tự động. Ông kêu gọi cả hai siêu cường hợp tác bất cứ khi nào có thể được để hạn chế những nguy cơ sinh tồn của cuộc chiến tranh lạnh mới này - và đặc biệt là để tránh một cuộc hạ màn đầy thảm khốc trong tiềm tàng về tình trạng tranh chấp của Đài Loan.
    Như trong những năm 1970, nhiều chuyên gia chỉ trích về phương cách này trong cuộc tranh luận hiện nay về chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc.
    Elbridge Colby, người có suy nghĩ sâu sắc nhất trong thế hệ mới của các chiến lược gia bảo thủ, đã khuyến khích chính quyền Biden áp dụng "chiến lược phủ nhận" để ngăn chặn Trung Quốc thách thức về mặt quân sự trong hiện trạng mà Đài Loan được hưởng quyền tự trị trên thực tế và một nền dân chủ thịnh vượng.
    Đôi khi, dường như chính quyền Biden tự đặt vấn đề về chính sách mơ hồ trong chiến lược về Đài Loan kéo dài trong nửa thế kỷ, trong đó Mỹ không rõ liệu họ có sử dụng quân lực để bảo vệ hòn đảo này không. Và gần như có một sự đồng thuận trong lưỡng đảng rằng, kỷ nguyên cam kết trước đây với Bắc Kinh là một sai lầm, dựa trên giả định lầm lạc rằng, tăng cường thương mại với Trung Quốc sẽ tự do hóa hệ thống chính trị một cách kỳ diệu.
    Tuy nhiên, không có lý do chính đáng là tại sao các siêu cường của thời đại chúng ta, giống như những người tiền nhiệm của họ trong những năm 1950 và 1960, phải chịu đựng 20 năm bên miệng hố của chiến tranh trước khi có giai đoạn giảm căng thẳng của Chiến tranh Lạnh.
    Để giảm được căng thẳng theo phiên bản 2.0, đối với Đài Loan, chắc chắn là Hoa Kỳ sẽ yêu chuộng hơn khi chạy theo phiên bản mới nhưng với vai trò đảo ngược thay vì như đã thực hiện trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba,.
    Nhà nước cộng sản phong tỏa hòn đảo tranh chấp gần đó và Hoa Kỳ phải tiến hành phong tỏa, với tất cả các rủi ro kèm theo. Đó chắc chắn là những gì mà Kissinger tin tưởng trong năm cuối cùng của cuộc đời dài của mình. Đó là động lực chính cho chuyến thăm cuối cùng của ông tới Bắc Kinh ngay sau sinh nhật lần thứ 100 của ông.
    Giống như tình trạng hòa hoãn 1.0, một sự hòa hoãn mới sẽ không có nghĩa là xoa dịu Trung Quốc, càng không mong đợi đất nước này thay đổi. Điều đó có nghĩa là, lại một lần nữa, tham gia vào vô số cuộc đàm phán: về kiểm soát vũ khí (rất cần thiết khi Trung Quốc điên cuồng xây dựng lực lượng của mình trong mọi lĩnh vực); về thương mại; về chuyển giao công nghệ, biến đổi khí hậu, trí tuệ nhân tạo; và trên không gian. Giống như SALT, các cuộc đàm phán này sẽ kéo dài và tẻ nhạt - và thậm chí có thể không có kết quả. Nhưng chúng sẽ là "cuộc chạm trán" mà Thủ tướng Anh Winston Churchill thường thích là có chiến tranh hơn. Đối với Đài Loan, các siêu cường có thể làm tồi tệ hơn là phủi sạch lời hứa cũ của họ, do Kissinger đưa ra, là đồng ý các vấn đề không đồng ý.
    Tất nhiên, tình trạng giảm căng thẳng không làm nên điều kỳ diệu. Trong những năm 1970, nó đã bị bán đổ bán tháo và mua với giá qua mắc. Chính sách này chắc chắn đã mang lại cho Hoa Kỳ nhiều thời gian, nhưng đó là một chiến lược cờ vua có lẽ đòi hỏi quá nhiều sự hy sinh nhẫn tâm của các quân cờ nhỏ hơn trên bàn cờ.
    Bối rối trước sự phản đối của Hoa Kỳ đối với sự can thiệp của đất nước ông vào Angola, một nhà phân tích Liên Xô đã nhận xét: "Người Mỹ các bạn đã cố gắng bán việc hòa hoãn như chất tẩy rửa và tuyên bố rằng nó sẽ làm mọi thứ mà một chất tẩy rửa có thể làm."
    Cuối cùng, giới phê bình đã thành công trong việc đầu độc thuật ngữ này. Vào tháng 3 năm 1976, Ford đã cấm sử dụng nó trong chiến dịch tái tranh cử của ông. Nhưng không bao giờ có một sự thay thế khả thi.
    Khi được hỏi liệu ông có một thuật ngữ thay thế không, Kissinger đã đưa ra một câu trả lời dí dỏm đặc trưng. Ông nói: "Tôi đã nhảy múa xung quanh mình để tìm một người, giảm căng thẳng, giảm căng thẳng. Chúng ta cũng có thể kết thúc với từ cũ một lần nữa."
    Hiện nay, chính quyền Biden đã giải quyết vấn đề bằng cách dùng từ riêng của mình: "giảm rủi ro". Nó không phải là tiếng Pháp, nhưng nó cũng hầu như không phải là tiếng Anh. Mặc dù khởi điểm của cuộc chiến tranh lạnh này là khác biệt, vì sự tương thuộc về kinh tế ngày nay lớn hơn nhiều giữa các siêu cường, về cơ bản, chiến lược tối ưu có thể trở nên giống như trước đây.
    Nếu sự hòa hoãn mới bị chỉ trích, thì giới phê bình không nên giải thích lầm lạc nó theo cách mà sự hòa hoãn của Kissinger thường bị xuyên tạc bởi nhiều kẻ thù của ông - kẻo họ thấy mình giống như Reagan trước đây, về cơ bản cũng làm như vậy khi họ ngồi Phòng Phân tích Tình hình.
 
Niall Ferguson
Đỗ Kim Thêm dịch
 
Số Tháng Ba /Tháng Tư 2024
 
Tác giả Naill Ferguson là thành viên nghiên cứu cấp cao của Học viện Hoover, Đại học Stanford, tác giả sách Kissinger: 1923–1968; The Idealist.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thế giới đã phải đối mặt với muôn vàn hỗn loạn và khó khăn trong những năm 2020. Sau đại dịch COVID là các cuộc xung đột và chiến tranh nổ ra ở Châu Âu, khiến cho giá cả lương thực và nhiên liệu tăng cao chưa từng thấy. Ngoài ra, biến đổi khí hậu đang gây ra những sự kiện thiên tai thảm khốc chưa từng có. Những cụm từ “chưa từng có,” hay “chưa từng thấy” đã trở nên quá quen thuộc đến mức nhàm tai.
“Trung Cộng muốn đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam để đánh lạc hướng và cầm chân quân đội Bắc Việt, ngăn chận cuộc tổng tấn công Miền Nam đang tiến hành,” Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bửu Viên nói với chúng tôi ngay sau cuộc rút quân khỏi Pleiku (15/2/1975). Ít lâu sau, lại được nghe Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cho biết sau một cuộc Họp Nội Các, rằng: “TC có liên lạc và đề nghị một kế hoạch để tiếp cứu VNCH, nhưng TT Thiệu đã từ chối.” Vào thời điểm ấy thì chúng tôi cho rằng câu chuyện TC muốn can thiệp để ngăn chận cuộc tấn công của BV là hoang tưởng, viển vông nên không để ý, và sau này cũng quên không hỏi thẳng TT Thiệu.
Vào thế kỷ 18, Đảng Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republican Party) được gọi tắt là Cộng Hòa (Republican) hoạt động ở Hoa Kỳ do Thomas Jefferson và James Madison thành lập, nhằm chống lại chủ trương và chính sách của Đảng Liên Bang (Federalist Party) lãnh đạo bởi Luật Sư Alexander Hamilton hoạt động mạnh về kinh tế, xã hội, ngoại giao...
Các di tích bằng đá gọi là megalith rải rác khắp nơi trên thế giới, tiếng Việt gọi là “cự thạch” (“cự” có nghĩa là lớn như trong cự phách, cự đại, cự phú, dịch prefix mega; thạch là đá)...
LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", và sắp xuất bản cuốn BỨC TỬ VNCH - KISSINGER VÀ 8 THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM. Bước vào tháng Tư, mời đọc bài bài viết đã đăng trên báo xuân Việt Báo Ất Dậu (2005), vừa được tác giả gửi lại bản có hiệu đính.
Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng và chưa có bảng thống kê về ngôn ngữ, kể từ khi có mặt loài người sống trên hành tinh trái đất này. Có hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn ngôn ngữ khác biệt nhau, và chưa có ai qủa quyết con số chính xác về ngôn ngữ từng được sử dụng trong lịch sử phát triển của xã hội con người...
Cho dù Hoa Kỳ trong thế yếu không còn thúc đẩy Trung Quốc dân chủ hóa nhưng bù lại cả hai chính quyền Bush (con) và Obama đều bang giao với Trung Quốc như một đối tác trách nhiệm (responsible party). Thực tế trái ngược vì tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh tăng theo đà phát triển kinh tế nên Trung Quốc không còn muốn nép mình trong trật tự thế giới tự do (liberal world order) do Mỹ lãnh đạo...
Tháng Ba là tháng vinh danh những đóng góp của người phụ nữ cho xã hội, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nước khác. Nhà văn người Anh Charlotte Brontë (1816-1855) đã viết trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của bà “Jane Eyre,” được xuất bản vào năm 1847, rằng, “Tôi không phải là chim; và không có cái lưới nào bẫy được tôi: Tôi là một con người tự do với ý chí độc lập.”Charlotte Brontë đã khai hỏa trên mặt trận văn chương cho cuộc chiến kéo dài hàng nhiều thế kỷ để đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội mà tới hôm nay vẫn chưa thực sự chấm dứt. Những thanh thiếu nữ tại Afghanistan đã và đang bị cấm thừa hưởng nền giáo dục học đường mà đáng lý ra các em phải có được! Nhưng, không phải chỉ ở thời đại của tác giả “Jane Eyre” người phụ nữ mới gióng lên tiếng nói tự do và độc lập mà trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay người phụ nữ đã bao lần lên tiếng, xuống đường để tranh đấu cho tự do và độc lập của họ cũng như của xã hội và đất nước họ.
Vào thập niên 1970 kinh tế và dân số Ấn Độ và Trung Quốc tương đương với nhau nhưng rồi 30 năm sau đó tăng trưởng bên Tàu vượt xa Ấn. Nếu so sánh Trung Quốc với nhiều nước đang mở mang khác như Ai Cập, Brazil, Indonesia…kết quả đều tương tự. Câu hỏi đặt ra nơi đây tại sao tham nhũng ở Trung Quốc không cản trở tăng trưởng, mà trái lại nền kinh tế bốc hỏa nhanh chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại?
Vào đầu thế kỷ 20, xã hội Nga cũng tương tự như xã hội Pháp trước cuộc cách mạng 1789 vậy. Một mặt triều đình thối nát, công quỹ kiệt quệ. Mặt khác giáo hội Chính Thống Giáo cũng liên kết với vương quyền và giới quý tộc bóc lột người dân. Cuộc cách mạng lật đổ Nga Hoàng năm 1917 không phải hoàn toàn, hoặc chủ yếu, do người Cộng Sản Bolshevik. Cũng như cuộc cách mạng Pháp và những cuộc cách mạng khác, thành quả có được là do sự đóng góp của nhiều cá nhân và đảng phái khác nhau. Tuy nhiên tổ chức nào nghiêm túc, chặt chẽ và kỷ luật sẽ nắm được thế thượng phong...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.