Hôm nay,  

Sự tối quan trọng của yếu tố “Viễn Kiến” trong một cuộc cách mạng (Phần II)

25/03/202413:57:00(Xem: 700)

russ rev

5. Cu
ộc cách mạng Nga 1917:

 

Vào đầu thế kỷ 20, xã hội Nga cũng tương tự như xã hội Pháp trước cuộc cách mạng 1789 vậy. Một mặt triều đình thối nát, công quỹ kiệt quệ. Mặt khác giáo hội Chính Thống Giáo cũng liên kết với vương quyền và giới quý tộc bóc lột người dân. Cuộc cách mạng lật đổ Nga Hoàng năm 1917 không phải hoàn toàn, hoặc chủ yếu, do người Cộng Sản Bolshevik. Cũng như cuộc cách mạng Pháp và  những cuộc cách mạng khác, thành quả có được là do sự đóng góp của nhiều cá  nhân và  đảng phái khác nhau. Tuy nhiên tổ chức nào nghiêm túc, chặt chẽ và kỷ luật sẽ nắm được thế thượng phong.
    Nga Hoàng đã bị lật đổ tháng hai năm đó và một chính phủ lâm thời đã được thành lập dưới quyền của Thủ Tướng Kerensky. Kerensky là một người chủ trương thành lập một thể chế dân chủ theo chiều hướng tây phương. Lê Nin là một trong những người ngưỡng mộ Robespierre như một thần tượng. Trong khi Robespierre cướp lấy quyền lực chính trị, trong một giai đọan, từ những phe nhóm ôn hòa của cuộc cách mạng Pháp, thì Lê Nin cướp quyền lực vĩnh viễn từ phe ôn hòa do Alexander Kerensky lãnh đạo, trong cuộc cách mạng Nga. Cuộc cách mạng Bolshevik xảy ra vào tháng 10, 1917.
    Sai lầm chính trị của Kerensky là chủ trương chống lại cuộc xâm lăng của nước Đức và tuyển mộ quân đội gởi ra tiền tuyến. Đây là một hành động yêu nước nhưng thiếu sáng suốt vì vào thời điểm đó, dân chúng thiếu ăn và chán ngán chiến tranh. Lê Nin và Đảng Bolshevik (không còn là một nhóm nữa mà đã tách ra khỏi nhóm Menshevik để thành lập một đảng riêng) trái lại chủ trương phản chiến. Điều này phù hợp lòng dân, và chính phủ Đức viện trợ cho nhóm Bolshevik tài chánh dồi dào, mong sao cho Lê Nin nắm được chính quyền để Đức dễ chiếm cứ một phần đất phì nhiêu của Nga Sô.
    Chính nhờ những yếu tố này mà phe Bolshevik cướp được chính quyền vào tháng 10, 1917. Biến cố này được các sử gia Cộng Sản nâng cấp thành “cuộc cách mạng tháng 10 vĩ đại”. Trên thực chất cách mạng lật đổ Nga Hoàng đã xẩy ra tháng 2 trước đó. Tháng 10 chỉ đánh dấu sự chuyển nhượng quyền lực từ nhóm Kerensky qua tay nhóm Lê Nin.
    Sau khi nắm được chính quyền Lê Nin lập tức thi hành các chính sách Cộng Sản tiêu biểu như sau:
     Tiêu diệt mọi thành phần và đảng phái/ phe nhóm đối lập (đặc biệt là đảng Cách Mạng Xã Hội và Menshevik).
    Tháng 12 năm 1917 thành lập cơ quan mật vụ Cheka (vốn là tiền thân của KGB) để thanh tóan và thủ tiêu tất cả mọi đối lập trong và ngòai đảng.
    Quốc hữu hóa tất cả mọi ngân hàng.
    Trao các hãng xưởng cho các soviets quản trị.
    Các tài khoản tư nhân trong các ngân hàng bị tịch thu.
    Tài sản và ngân khoản của giáo hội Chính Thống Giáo bị tịch thu.
    Tăng lương và giảm giờ làm việc cho nhân công thành 8 giờ một ngày.
    Chối bỏ tất cả các món nợ với các quốc gia khác.
    (Xem Wikipedia: October Revolution)
    Cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917 tuy thành công trên phương diện cướp chính quyền cho nhóm Bolshevik, nhưng lại là một cuộc cách mạng thiếu viễn kiến và gây nhiều tác hại cho dân tộc Nga, lẫn những dân tộc bị các chế độ Cộng Sản tiếp theo cai trị vì các yếu tố như sau:
    Tính cách đoạn tuyệt quá khứ quá mạnh của nó hủy hoại nền văn hóa truyền thống dân tộc Nga trong khi thiên đường Cộng Sản chỉ là một viễn tượng xa vời chưa có.
    Tính bạo động và đổ máu của nó, dưới sự lãnh đạo của Lê Nin và sau đó Stalin còn vượt xa mức độ của thần tượng của họ là Robespierre nữa. Nếu kể cả Stalin thì đảng CS Liên Xô đã giết khoảng trên 30 triệu người. Một sự lạm sát như thế tiêu diệt nguyên khí của dân tộc Nga và dân tộc này sẽ mất nhiều thế kỷ và thế hệ mới khôi phục được.
    Cuộc cách mạng tháng 10 của người Bolshevik hoàn toàn không có khả năng khống chế các thành phần quá khích và giáo điều. Hơn ai hết, lãnh tụ của họ Lê Nin là một thành phần quá khích. Mặc dù vào những năm cuối cùng của mình, Lê Nin đã nhìn thấy một phần những khuyết điểm và muốn sửa đổi. Tuy nhiên sức khỏe của ông đã suy giảm và những quy luật mà ông đưa ra, như quan điểm dân chủ tập trung, đã bị Stalin lợi dụng triệt để để khống chế mọi thành phần đối lập trong lẫn ngoài đảng. Lê Nin chết sớm và Stalin lên ngôi.
    Đảng Cộng Sản Liên Xô là tiêu biểu tuyệt vời cho hiện tượng thể chế hóa phương tiện. Lý do là vì trên nguyên tắc, theo lý thuyết Mác Xít, đảng CS chỉ là một phương tiện để xây dựng xã hội chủ nghĩa hoặc thiên đường cộng sản. Một khi thiên đường đạt được thì phương tiện sẽ triệt tiêu. Tuy nhiên đảng như là một phương tiện, vì nắm mọi quyền lực và quyền lợi trong tay, nên chuyển mình thành một định chế vĩnh viễn trường tồn, nắm sinh mệnh không những của từng đảng viên mà của nguyên dân tộc trong bàn tay sắt của mình. Dĩ nhiên bao lâu mà thiên đường chưa đến thì không có lý do để triệt tiêu và thiên đường càng viển vông thì quyền lực càng trường tồn. Như là một quy luật, một phương tiện chuyển mình trở thành định chế.
    Đảng CS Liên Xô trở thành một con khủng long cấu xé không những các đảng viên nội bộ mà còn ăn tươi nuốt sống toàn dân tộc Nga. Các đảng CS Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn đều là những tai họa tương tự cho dân tộc họ vì tính thiếu viễn kiến của cuộc cách mạng tháng 10 năm 1917.
 
6. Cuộc cách mạng Hồi Giáo năm 1979 tại Iran:
 
Nếu chúng ta định nghĩa cách mạng là sự thay thế một trật tự xã hội này bằng một trật tự xã hội khác với một quan điểm chỉ đạo trái ngược, thì công cuộc lật đổ Vương Triều Mohammad Reza Pahlavi năm 1979, dưới sự lãnh đạo của Giáo Sĩ Hồi Giáo Khomeni để thành lập nên nước Cộng Hòa Hồi Giáo Iran, là một cuộc cách mạng đúng nghĩa.
    Dân tộc Iran vốn là một dân tộc theo tín ngưỡng Hồi Giáo. Tuy nhiên vương triều Pahlavi đã mất lòng dân vì những yếu tố sau đây:
    Nhà vua có khuynh hướng chuyên chế và mất lòng giới trí thức cấp tiến muốn dân chủ hóa đất nước.
    Vương triều muốn giới hạn quyền lợi cũng như ảnh hưởng của giáo hội Hồi Giáo và làm giới giáo sĩ bất mãn.
    Vương triều muốn từ từ thay thế luật truyền thống Hồi Giáo bằng luật lệ Tây Phương, kể cả nam nữ bình quyền, lẫn cấm không cho phụ nữ đội khăn che đầu truyền thống. Điều này làm dân chúng phẫn nộ.
    Nhà vua còn tỏ ra lệ thuộc vào Hoa Kỳ và Anh Quốc quá mức. Các quốc gia này bị dân chúng coi là những kẻ thù của Hồi Giáo.
    Vương triều sử dụng tối đa quân đội và công an để đàn áp dân chúng. Tuy nhiên các lực lượng chống đối liên kết. Cuối cùng nhà vua phải bỏ nước lưu vong.
    Giáo Sĩ Khomeni trở về Iran từ Pháp và được hằng triệu người đón tiếp tại phi trường.
Quan điểm chỉ đạo của cuộc cách mạng này gồm các yếu tố sau đây: 
    Luật Hồi Giáo là tối thượng và giáo quyền (theocracy) phủ quyết thế quyền (the state).
    Công bằng xã hội.
    Chống lại những “khuynh hướng đế quốc” của các nướcTây Phương, nhất là Hoa Kỳ và Anh Quốc. Cuộc chiến ngày hôm nay, đối với họ, là sự tiếp nối tự nhiên của các cuộc thánh chiến giữa Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo thời Trung Cổ.
    Chống lại văn hóa Tây Phương.
    Cuộc cách mạng Hồi Giáo tại Iran chỉ là khởi điểm, cuộc cách mạng phải lan tràn trên tất cả các quốc gia Hồi Giáo khác, các nước Tây Phương và cuối cùng phải chinh phục toàn thế giới bằng ý thức hệ Hồi Giáo.
    Để thực thi ý thức hệ trên tại Iran, hiến pháp nước này được viết lại và mọi quyền lực và cơ chế chính trị đều bị sự kiểm soát và chỉ đạo của một Hội Đồng Giáo Sĩ (Council of Guardians). Hội đồng này kiểm soát bầu cử và các sắc luật của lập pháp. Chủ tọa của Hội Đồng là một lãnh tụ Hồi Giáo tối cao (Supreme Leader) điều khiển và kiểm soát quân đội và công an, cũng như bổ nhiệm các chức vụ cao cấp của chính quyền và trong ngành tư pháp. Vị lãnh tụ tối cao đầu tiên là Ayatolla Khomeni. Vị lãnh tụ tối cao hiện giờ là Ayatolla Ali Khamenei.
    Nếu chúng ta đáng giá mức độ viễn kiến hoặc thiếu viễn kiến của cuộc cách mạng này thì chúng ta có những nhận xét như sau: 
    Những quan điểm hướng về tương lai của Khomeni là một xã hội lý tưởng sống bằng lời dạy của Thượng Đế qua kinh Koran. Tuy nhiên, trên thực chất đây là một xã hội trong đó giới Giáo Sĩ thống trị thường dân, Giáo Hội thống trị cả chính quyền lẫn xã hội dân sự, và đàn ông thống trị nữ giới, tạo nhiều bất công.
    Dĩ nhiên cuộc cách mạng này không có tính đoạn tuyệt quá khứ. Ngược lại không những nó tiếp nối quá khứ mà còn đi ngược lại thời gian, phủ nhận những tiến bộ bình thường của nền văn hóa Iran. Bằng tác động đi ngược lại dòng thời gian, nó muốn kéo dân tộc Iran trở về thời Trung Cổ khi Đấng Tiên Tri Mohammad mới quật khởi, khai đạo và vung gươm chinh phục các bộ lạc trong bán đảo Saudi Arabia thời bấy giờ. Kéo một dân tộc đi ngược lại hơn một ngàn năm là một tác động gây nhiều tang tóc.
    Chính vì chủ trương phản tiến hóa như thế mà cuộc cách mạng tại Iran được coi là nguồn gốc của quan điểm Hồi Giáo cực đoan (fundamentalist Islam) cùng với Ossama Bin Laden lẫn nhiều phe nhóm cực đoan khác. Chính quyền Iran còn âm thầm tài trợ cho nhiều phe nhóm khủng bố, nhằm lật đổ các chính quyền tại các quốc gia Hồi Giáo mà họ cho là thối nát, phản đạo và làm tay sai cho tây phương (Hồi Quốc, Saudi Arabia, Jordan, Ai Cập…)
    Những thành phần quá khích không những không bị khống chế mà còn dược ủng hộ và đưa vào những chức vụ lãnh đạo trong chính quyền.
    Giáo Hội hiện giờ đang nắm quyền tuyệt đối, khống chế chính quyền lẫn xã hội dân sự. Qua tiến trình thể chế hóa phương tiện, giáo hội trở thành một định chế đầy quyền sinh sát trong tay và một thứ siêu quyền lực. Các nhà lãnh đạo quyết tâm nắm giữ quyền hành để thiên thu trường trị, nhất thống giang hồ, tương tự các đảng cộng sản trên thế giới.
    Cuộc cách mạng Hồi Giáo tại Iran là một tai họa lớn lao cho dân tộc này, và gieo mầm hiểm họa cho nền hòa bình của thế giới. Nhất là nếu Iran hoặc những phe nhóm khủng bố Hồi Giáo chế, ráp, đánh cắp hoặc mua được vũ khí hạt nhân, vũ khí hóa học hoặc tương tự.
 
Đánh giá các cuộc cách mạng:
 
Sau khi duyệt xét các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, chúng ta có thể phân ra hai loại: những cuộc cách mạng đem lại dân chủ và những cuộc cách mạng xây dựng độc tài. Các cuộc cách mạng đem lại dân chủ bao gồm: Magna Carta tại Anh Quốc năm 1215, Cuộc cách mạng Hoa Kỳ năm 1776, cuộc cách mạng Pháp 1789 và cuộc cách mạng Tân Hợi tại Trung Quốc 1911. Các cuộc cách mạng đem lại độc tài bao gồm: Cuộc cách mạng Bolshevik 1917 và cuộc cách mạng Hồi Giáo tại Iran năm 1979.
    Hầu như những cuộc cách mạng dân chủ hóa luôn luôn đem lại, không những tiến bộ vượt bực về kinh tế cho các quốc gia sở tại, mà trên phương diện nhân quyền lẫn dân quyền, đều vượt trội so với các dân tộc phải trầm luân trong các cuộc cách mạng độc tài. Bằng cớ hiển nhiên là Anh Quốc, Hoa Kỳ, Pháp và Đài Loan vượt trội Nga Sô, các quốc gia Đông Âu và Trung Cộng.
    Các cuộc cách mạng tại Anh Quốc, Hoa Kỳ, Pháp và Tân Hợi có nhiều khuyết điểm và nhiều khi bất thành. Nhưng viễn kiến của những người lãnh đạo biến lý tưởng của họ thành những ngọn đưốc soi đường cho các thế hệ mai sau. Hậu duệ của họ cuối cùng đã xây dựng được những xã hội phồn vinh, dân chủ và tươi sáng. Lý tưởng đấu tranh của họ hoàn toàn không có khuynh hướng ý thức hệ giáo điều. Những đảng phái phe nhóm của họ thành lập không trở thành những định chế cứng nhắc đầy quyền lực, siêu chính quyền, để khống chế nhà nước lẫn xã hội dân sự như các đảng Cộng Sản hoặc hội đồng giáo sĩ hồi giáo Iran.
Cuộc cách mạng Bolshevik 1917 và cuộc cách mạng Hồi Giáo Iran 1979 rõ ràng là những cuộc cách mạng thiếu viễn kiến. Các cuộc cướp chính quyền của các đảng Cộng Sản khác nhau tại Trung Hoa lục địa, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba đều cùng chia sẻ những khuyết điểm đã thảo luận trên.
    Mặc dầu Lê Nin là một trong những người ngưỡng mộ Robespierre, và ở một mức độ nào đó, đã “noi gương” Robespierre một cách xuất sắc trong chủ trương đổ máu của mình. Tuy nhiên có một sai biệt căn bản giữa cuộc cách mạng Pháp 1789 và cuộc cách mạng Bolshevik 1917. Đó là cuộc cách mạng Pháp không nhằm đến mục tiêu hủy diệt giáo hội Công Giáo, hoặc hủy diệt tôn giáo nói chung, như Lê Nin. Tính viễn kiến của cuộc cách mạng Pháp nằm ớ chỗ giới hạn quyền lực của giáo hội và vạch một lằn ranh rõ rệt giữa giáo quyền và thế quyền, giúp cho sự phát triển dân chủ và ý niệm chủ quyền quốc gia được hưng thịnh. Biên giới giữa giáo quyền và thế quyền giúp cho nước Pháp và các nước Tây Âu, vào thời điểm đó, song hành hai công tác thiết yếu: nối tiếp truyền thống văn hóa Thiên Chúa Giáo và xây dựng dân chủ chân chính.
    Sai lầm lớn lao nhất của các Ông Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành và Hồ Chí Minh là áp dụng giải pháp Mác Lê cho Việt Nam. Giải pháp này tự nó đã thiếu viễn kiến và tàn phá một nước Thiên Chúa Giáo (hệ phái Chính Thống Giáo) như Nga Sô một cách thảm thương, vì tính đoạn tuyệt quá khứ và giáo điều của nó. Khi áp dụng miễn cưỡng vào các quốc gia Đông Á, với một nền văn hóa hoàn toàn khác biệt là Tam Giáo (Phật Lão Khổng) thì tính tha hóa và sự tàn phá còn tệ hại hơn nữa.
    Trước hết các tôn giáo Đông Á như Phật Giáo, Lão Giáo và ngay cả Không Giáo không có tính giáo quyền. Không có một tôn giáo nào có một hệ thống và định chế quyền lực như có một vị giáo chủ toàn năng sai khiến giáo dân và can thiệp vào thế quyền cả. Nếu có thế quyền thì chỉ có giai cấp Nho gia sĩ phu đứng ra giúp triều đình gánh vác chuyện nước non. Tuy nhiên các sĩ phu cũng không có một giáo chủ sai khiến họ.
    Dĩ  nhiên xã hội truyền thống có rất nhiều bất công. Nhưng tính cứng nhắc của nó không bằng xã hội Pháp trước khi cuộc cách mạng Pháp xảy ra. Tại Đông Á, sự vận hành xuyên giai cấp tuy khó khăn nhưng thường xuyên xảy ra. Một thư sinh nghèo nếu học giỏi vẫn được bổ nhiệm làm quan lớn. Vua Quang Trung xuất phát từ giai cấp nông dân.
    Gia cấp xã hội tây phương lúc đó trái lại được phân làm 3 loại rõ rệt. Giai cấp thứ nhất là giáo hội công giáo, giai cấp thứ nhì là quý tộc và giai cấp thứ ba là thứ dân. Vương triều đứng ngoài và trên các giai cấp. Tuyệt đối không có sự vận hành xuyên giai cấp giữa vương triều, quý tộc và thứ dân. Các giai cấp đều là cha truyền con nối. Chỉ có sự vận hành xuyên giai cấp trong giáo hội mà thôi, vì hàng ngũ giáo hội không phân biệt giai cấp. Sự xung đột giữa giáo quyền và thế quyền tại Tây Phương, sau đó đưa đến sự phân chia ranh giới giữa giáo quyền và thế quyền, tuy giảm đi quyền lực của giáo hội, nhưng lại giúp cho giáo hội loại bỏ những tính tiêu cực và nuôi dưỡng những tính tích cực, hầu tiếp tục đóng góp như là cột trụ của nền văn hóa Tây Âu.
    Chính vì thế khi nói đến giáo hội Công Giáo La Mã ngày hôm nay, chúng ta thường nghe nhắc tới các yếu tính như: thể hiện lòng bác ái qua các công tác từ thiện và giáo dục, bênh vực cho giới nghèo khổ qua quan điểm công bằng xã hội, và cổ võ cho hòa bình thế giới qua uy tín của giáo hội.
    Tại Đông Á, nền văn hóa truyền thống hàm chứa nhiều ưu điểm có thể đóng góp cho tiến trình dân chủ hóa và củng cố cho ý niệm dân chủ đó. Ưu điểm lớn vì ngoài ba yếu tính tích cực tương tự như của giáo hội La Mã, nền văn hóa Tam Giáo còn bao hàm tính phi ý thức hệ cực mạnh và hoàn toàn phủ nhận tiến trình thể chế hóa phương tiện.
    Chính vì thế, tuy thời điểm cách mạng dân chủ đến trễ với nền văn hóa Đông À qua cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 của Tôn Dật Tiên (vì bản chất ôn hòa và trung dung của Tam Giáo) nhưng tính tích cực của nền văn hóa truyền thống sẽ dễ dàng thăng hoa cho quan điểm dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên ngày hôm nay.
    Dĩ nhiên những cuộc cách mạng dân chủ không phải hoàn toàn không khuyết điểm. Vấn đề là các cuộc cách mạng này không nặng giáo điều và những khuyết điểm có cơ hội được tu chính, mặc dù sự tu chính có thể gặp nhiều khó khăn.
    Khi chúng ta xét đến trường hợp của Hoa Kỳ, công trình giải phóng nô lệ của Tổng Thống Lincoln cũng không làm cho xã hội Hoa Kỳ hoàn hảo được. Hoa kỳ có thể được gọi là một xã hội do một đa số trung lưu cai trị một thiểu số người nghèo. Đại đa số người nghèo thất nghiệp và không có bảo hiểm sức khỏe. Tuy nhiên xã hội Hoa Kỳ cởi mở và luôn cải tiến. Tổng Thống Barack Obama đã thành công trong việc cải tổ nền y tế Hoa Kỳ và đem lại bảo hiểm sức khỏe cho 15% người dân Hoa Kỳ không có bảo hiểm. Đây là một bước đi dài trên con đường điều chỉnh những khuyết điểm lớn lao của cuộc cách mạng Hoa Kỳ 1776.
    Mặc dầu chúng ta không thể đánh giá thấp cuộc cách mạng Hoa Kỳ, nhưng chúng ta có quyền đặt câu hỏi giả định rằng: nếu cuộc cách mạng lừng danh này không xảy ra thì số phận của dân Hoa Kỳ sẽ ra sao? Một trong những câu trả lời mà tôi cảm thấy đương nhiên là: Dân Hoa Kỳ sẽ tương tự như dân Gia Nã Đại hoặc dân Úc Đại Lợi. Chúng ta có thể tranh cãi về những quyền tự do tương đối giữa dân Hoa Kỳ và dân Gia Nã Đại hoặc Úc Đại Lợi. Tuy nhiên có một điều chúng ta có thể khẳng định là tại Gia Nã Đại và Úc, dù đi làm hay thất nghiệp, mọi người đều không cần lo lắng về bảo hiểm sức khỏe. Cần nói thêm rằng, Úc và Gia Nã Đại không phải là những quốc gia hiếm hoi trên phương diện bảo hiểm sức khỏe cho toàn dân, mà hầu hết các quốc gia tiền tiến đều có hệ thống bảo hiểm sức khỏe tương tự, hiệu năng hơn, công bằng hơn và ít tốn kém hơn Hoa Kỳ.
 
Đại họa của dân tộc Việt Nam
 
Đại họa của dân tộc Việt Nam là: Ông Hồ Chí Minh là một chính trị gia lão luyện nhưng hoàn toàn không có viễn kiến. Ông đã đưa dân tộc vào những tuyệt lộ. Những bước đi, đôi khi ngoạn mục của ông và những đồ đệ, chỉ là những hào nhoáng có tính giai đoạn. Kết quả thực sự họ đem lại cho dân tộc là sự nghèo khổ, tụt hậu so với các dân tộc cùng khu vực và cùng nền tảng văn hóa, sự mất đất, mất vùng biển tổ tiên chúng ta đã tranh đấu nhiều thế kỷ để bảo tồn và sự giảm sút tổng năng lượng trí tuệ của toàn dân tộc.
    Nếu không có cuộc cách mạng Bolshevik 1917, nếu đảng CSTQ không chiến thắng tại Trung Hoa năm 1949, nếu CSVN không nhờ vào Trung Cộng và chiến thắng tại Điện Biên Phủ 1954 và chinh phục Nam Việt Nam 1975, thì ngày hôm nay, cũng như Nam Hàn, dân tộc Việt Nam với 100 triệu người và khối óc thông minh, cần mẫn đã hãnh diện đứng vào hàng ngũ của những quốc gia phát triển như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan rồi.
    Trong những danh nhân tranh đấu cho nền độc lập của nước nhà, các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, các Nhà Cách Mạng Lý Đông A, Trương Tử Anh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Tường Tam, mặc dù không mưu mô quyền biến, lão luyện giang hồ bằng Ông Hồ Chí Minh, nhưng họ vẫn nhiều viễn kiến hơn Ông Hồ, vì một mặt họ chủ trương dân chủ hóa đất nước, nhưng mặt khác họ vẫn chủ trương tiếp nối truyền thống văn hóa của dân tộc.
    Nếu không có Ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN thì ngày hôm nay, chúng ta không những đã có độc lập mà chúng ta còn có một đất nước tân tiến, một nền kinh tế hùng mạnh, một nền dân chủ đa nguyên đa đảng và ngang nhiên đối đầu với Trung Quốc trên các sự tranh chấp lãnh địa và lãnh hải.
    Không có chủ trương chính trị nào thiếu viễn kiến bằng chủ trương đoạn tuyệt với nền văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Không có tư tưởng chính trị nào thiếu viễn kiến bằng những giáo điều cứng nhắc làm mồi ngon cho tiến trình thể chế hóa phương tiện để xây dựng những đảng phái và định chế độc tài tàn phá nguyên khí của dân tộc.
    Trừ phi trong sự nghèo khổ cùng cực phải mất đi cả nhân tính, mỗi con người, mỗi dân tộc, không phải chỉ có nhu cầu vật chất, cũng không chỉ đơn thuần là một cái chốt vô tri trong một bộ máy, cũng không phải đơn thuần là những đơn vị sản xuất trong một guồng máy sản xuất phi nhân tính. Sự thiếu viễn kiến của Karl Marx là động lực để các đảng CS khác nhau chủ trương bần cùng hóa những con người và dân tộc trong một cố gắng vô vọng để vật chất hóa con người.
    Quan điểm dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên của các nền dân chủ hiện đại là một quan điểm mở (open) và mang tính năng động (dynamic).
    Chính vì các lý do trên, muốn phục hưng đất nước và đem lại cho Việt Nam chiều cao thực sự của dân tộc, chúng ta phải song hành chủ trương phục hưng văn hóa dân tộc và xây dựng dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên.
    Điều cần phải nhấn mạnh nơi đây là khi chủ trương đa nguyên là chúng ta phải chủ trương đa nguyên tuyết đối, không phải chủ trương đa nguyên bề mặt để làm bình phong cho một chế độ lưỡng đảng như Hoa Kỳ. Những phe nhóm quyền lực có thể khống chế một chính đảng trong một chế độ độc đảng dễ dàng để kéo dài đau thương cho cả dân tộc. Những phe nhóm quyền lực cũng có thề khống chế cả hai chính đảng để khống chế toàn bộ xã hội và làm chậm trễ những tiến trình cải tổ xã hội như tại Hoa Kỳ.
    Tuy nhiên nếu chúng ta có một môi trường đa nguyên thực sự, thì số đảng phái nhiều hơn và các nhóm quyền lực sẽ không bao giờ khống chế toàn diện được. Nhất là khi nguyên tắc đa nguyên được củng cố bởi viêc hiến định hóa thể thức bầu cử chọn đại diện theo tỷ lệ (proportional representation) và trách nhiệm bầu cừ cưỡng bách (compulsory voting).
    Phương pháp bầu cử đại theo tỷ lệ phải nhạy bén tối đa với tỷ lệ cử tri. Một chính đảng có 5% dân bầu phải có 5% đại diện trong quốc hội. Mọi người dân phải có trách nhiệm đi bầu. Nếu không đi bầu sẽ bị chế tài. Điều này sẽ làm cho những dân nghèo cũng đi bầu như những người khá giả. Về lâu về dài, tiếng nói của người nghèo sẽ được lắng nghe nhiều hơn, giảm thiểu sự bất công xã hội trong các chính sách quốc gia.
    Với tính nhạy bén của từng lá phiếu nâng cao và với tính đa nguyên tuyết đối của môi trường chính trị ngày càng vững mạnh, sẽ không có tình trạng các phe nhóm quyền lực khống chế tòan bộ chính trường, tạo ra những bất công bất trị.
    Muốn như thế, người dấn thân đi làm cách mạng phải có viễn kiến.
 

-- Luật Sư Đào Tăng Dực

(Constitution Hill, ngày 17 tháng 3, 2024)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thế giới đã phải đối mặt với muôn vàn hỗn loạn và khó khăn trong những năm 2020. Sau đại dịch COVID là các cuộc xung đột và chiến tranh nổ ra ở Châu Âu, khiến cho giá cả lương thực và nhiên liệu tăng cao chưa từng thấy. Ngoài ra, biến đổi khí hậu đang gây ra những sự kiện thiên tai thảm khốc chưa từng có. Những cụm từ “chưa từng có,” hay “chưa từng thấy” đã trở nên quá quen thuộc đến mức nhàm tai.
“Trung Cộng muốn đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam để đánh lạc hướng và cầm chân quân đội Bắc Việt, ngăn chận cuộc tổng tấn công Miền Nam đang tiến hành,” Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bửu Viên nói với chúng tôi ngay sau cuộc rút quân khỏi Pleiku (15/2/1975). Ít lâu sau, lại được nghe Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cho biết sau một cuộc Họp Nội Các, rằng: “TC có liên lạc và đề nghị một kế hoạch để tiếp cứu VNCH, nhưng TT Thiệu đã từ chối.” Vào thời điểm ấy thì chúng tôi cho rằng câu chuyện TC muốn can thiệp để ngăn chận cuộc tấn công của BV là hoang tưởng, viển vông nên không để ý, và sau này cũng quên không hỏi thẳng TT Thiệu.
Vào thế kỷ 18, Đảng Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republican Party) được gọi tắt là Cộng Hòa (Republican) hoạt động ở Hoa Kỳ do Thomas Jefferson và James Madison thành lập, nhằm chống lại chủ trương và chính sách của Đảng Liên Bang (Federalist Party) lãnh đạo bởi Luật Sư Alexander Hamilton hoạt động mạnh về kinh tế, xã hội, ngoại giao...
Các di tích bằng đá gọi là megalith rải rác khắp nơi trên thế giới, tiếng Việt gọi là “cự thạch” (“cự” có nghĩa là lớn như trong cự phách, cự đại, cự phú, dịch prefix mega; thạch là đá)...
LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", và sắp xuất bản cuốn BỨC TỬ VNCH - KISSINGER VÀ 8 THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM. Bước vào tháng Tư, mời đọc bài bài viết đã đăng trên báo xuân Việt Báo Ất Dậu (2005), vừa được tác giả gửi lại bản có hiệu đính.
Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng và chưa có bảng thống kê về ngôn ngữ, kể từ khi có mặt loài người sống trên hành tinh trái đất này. Có hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn ngôn ngữ khác biệt nhau, và chưa có ai qủa quyết con số chính xác về ngôn ngữ từng được sử dụng trong lịch sử phát triển của xã hội con người...
Cho dù Hoa Kỳ trong thế yếu không còn thúc đẩy Trung Quốc dân chủ hóa nhưng bù lại cả hai chính quyền Bush (con) và Obama đều bang giao với Trung Quốc như một đối tác trách nhiệm (responsible party). Thực tế trái ngược vì tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh tăng theo đà phát triển kinh tế nên Trung Quốc không còn muốn nép mình trong trật tự thế giới tự do (liberal world order) do Mỹ lãnh đạo...
Tháng Ba là tháng vinh danh những đóng góp của người phụ nữ cho xã hội, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nước khác. Nhà văn người Anh Charlotte Brontë (1816-1855) đã viết trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của bà “Jane Eyre,” được xuất bản vào năm 1847, rằng, “Tôi không phải là chim; và không có cái lưới nào bẫy được tôi: Tôi là một con người tự do với ý chí độc lập.”Charlotte Brontë đã khai hỏa trên mặt trận văn chương cho cuộc chiến kéo dài hàng nhiều thế kỷ để đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội mà tới hôm nay vẫn chưa thực sự chấm dứt. Những thanh thiếu nữ tại Afghanistan đã và đang bị cấm thừa hưởng nền giáo dục học đường mà đáng lý ra các em phải có được! Nhưng, không phải chỉ ở thời đại của tác giả “Jane Eyre” người phụ nữ mới gióng lên tiếng nói tự do và độc lập mà trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay người phụ nữ đã bao lần lên tiếng, xuống đường để tranh đấu cho tự do và độc lập của họ cũng như của xã hội và đất nước họ.
Vào thập niên 1970 kinh tế và dân số Ấn Độ và Trung Quốc tương đương với nhau nhưng rồi 30 năm sau đó tăng trưởng bên Tàu vượt xa Ấn. Nếu so sánh Trung Quốc với nhiều nước đang mở mang khác như Ai Cập, Brazil, Indonesia…kết quả đều tương tự. Câu hỏi đặt ra nơi đây tại sao tham nhũng ở Trung Quốc không cản trở tăng trưởng, mà trái lại nền kinh tế bốc hỏa nhanh chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại?
Một thế hệ trí thức Việt Nam mới xuất hiện trong thập niên đầu thế kỷ XX, quyết tâm đấu tranh vì độc lập dân tộc và hiện đại hóa xã hội Việt Nam...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.