Hôm nay,  

2012 - Kinh Tế Châu Á Ảm Đạm

11/01/201200:00:00(Xem: 9176)

2012 - Kinh Tế Châu Á Ảm Đạm

Thanh Hà & Nguyễn Xuân Nghĩa - RFI

Á Châu Trước Một Năm Bất Trắc...

Khó khăn kinh tế toàn cầu đe dọa đến các nước châu Á. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại, xuất khẩu của nhiều nước Á châu giảm sút vì khủng hoảng châu Âu và khó khăn kinh tế Mỹ. Đó là những thách thức chờ đợi kinh tế Châu Á trong năm 2012.

Trong thông báo đề ngày 02/01/2012 cơ quan thẩm định tài chính Mỹ, Moody’s không mấy lạc quan về viễn ảnh tăng trưởng của châu Á. Trung Quốc, Ấn Độ hay Indonesia vốn được coi là những nền kinh tế năng động nhất sẽ không phải là những ngoại lệ: tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc dự trù chỉ còn 8%. Một số nhà phân tích còn đi xa hơn khi cho rằng ề giai đoạn tăng trưởng thần kỳ của Trung Quốc đã thuộc về quá khứ.Ừ

Ông khổng lồ kinh tế thứ ba của châu Á là Ấn Độ, theo nhận xét của Moody’s cũng đang bước vào một vùng ề gió xoáy Ừ. Riêng Nhật Bản, sau một năm điêu đứng vì thảm họa sóng thần và tai nạn hạt nhân Fukushima, trong năm 2012 thực sự bắt tay vào công trình tái thiết cho nên tổng sản phẩm nội địa của Nhật dự trù tăng 2,1%.

Trước Mood’y, một cơ quan thẩm định tài chính uy tín khác là Standard & Poor's cũng đã nêu lên quan điểm tương tự trong báo cáo mang tên Asia Pacific Markets Outlook 2011: ềTỷ lệ tăng trưởng tại khu vực châu Á Thái Bình Dương trong năm 2012 sẽ chậm lại do xuất khẩu đi xuống, do bất ổn trên các thị trường tài chính và do đe dọa suy thoái tại châu Âu và Hoa KỳỪ.

Standard & Poor's đặc biệt quan ngại đối với các nước lấy xuất khẩu làm chủ đạo như Indonesia, Malaysia, Thái Lan Philippines và Việt Nam. Tuy nhiên báo cáo của Standard & Poor's tin tưởng vào đầu tư và tiêu thụ nội địa của Philippines cũng như Malaysia phần nào giúp hai quốc gia Đông Nam Á này chống cự với đà suy thoái chung của toàn cỗ xe kinh tế thế giới.

Tuy nhiên toàn cảnh kinh tế châu Á không đến nỗi quá đen tối nhờ lạm phát được khắc phục tại các nước Indonesia, Malaysia và kể cả Philippines. Lạm phát tại Philippines ở vào khoảng từ 4,2 đến 4,7% trong năm. Thấp hơn so với khoảng 5,2 % tại Indonesia và thấp hơn hẳn so với chỉ giá tiêu thụ dao động từ 9,9 đến 10,4% của Việt Nam. Riêng Malaysia và Thái Lan thành công trong việc duy trì chỉ giá tiêu thụ ở mức trên dưới 3%.

Liên quan đến chỉ số nợ nước ngoài, Standard & Poor's đánh giá tích cực 16 trên 22 quốc gia châu Á Thái Bình Dương. Riêng Việt Nam và Nhật Bản thì bị điểm xấu.

Nhìn từ Hoa Kỳ, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa cũng cho rằng các nước châu Á đang bước vào một năm mới với nhiều lo âu. Châu lục này từng đem lại nhiều hy vọng kể từ khi kinh tế Mỹ và châu Âu bị đình trệ từ sau khủng hoảng tài chính 2008, còn Nhật Bản thì lúng túng với hậu quả thiên tai tsunami tháng 3/2011. Theo ông Nguyễn Xuân Nghĩa, giờ đây Châu Á đang chuẩn bị đối phó với nhiều bất trắc:

Nguyễn Xuân Nghĩa : Nhìn từ năm qua thì Châu Á chưa thể tách rời khỏi khối công nghiệp hóa là ba đầu máy Âu-Mỹ-Nhật và tôi e rằng trong năm 2012, các nước châu Á đều phải hạ thấp kỳ vọng và tự chuẩn bị cho một đà tăng trưởng còn chậm hơn. Từ mùa thu 2011 rủi ro ấy đã thể hiện ngày càng rõ ràng hơn. Ở đây, ta nói về Á châu ngoài Nhật và có cả Trung Quốc lẫn Ấn Độ cùng các nước tân hưng Đông Bắc Á và các nước đang phát triển tại Đông Nam Á.

Trước hết, các nền kinh tế Á châu đều thấy chung một hiện tượng nội tại của họ. Đó là số cầu của thị trường nội địa không tăng mà còn giảm từ giữa năm ngoái trở đi nên không tạo ra lực đẩy khả dĩ bù đắp cho sự suy sụp của các thị trường công nghiệp hóa. Ngoại lệ là kinh tế Indonesia nhưng dù sao vẫn chưa đáng kể. Mà chiều hướng suy giảm đó còn tiếp tục trong quý bốn và có thể kéo dài qua năm nay.

Thứ hai, song song với sự giảm sút của thị trường nội địa, sức bật cố hữu của Á châu là xuất khẩu cũng đình trệ từ đầu quý hai và còn sa sút dần trong những tháng cuối năm. Nều nhìn vào một chỉ số tiên báo về sinh hoạt sản xuất trong những tháng tới là đơn đặt hàng chế biến, mà cả Anh và Pháp ngữ đều gọi là Purchasing Managers Index hay PMI, thì cả nhóm Đông Á đều thiếu khởi sắc, kể cả Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore hay Hồng Kông.

RFI : Trong lúc tình hình tại châu Âu và Hoa Kỳ vẫn còn đen tối

Nguyễn Xuân Nghĩa : Chẳng những không sáng sủa mà còn có phần đen tối hơn cái năm 2011 u ám vừa kết thúc. Năm nay, các nước Á châu sẽ thấy là quả đất hình tròn và các quốc gia đều liên lập với nhau về kinh tế chứ châu Á chưa thể tìm ra một định mệnh kinh tế riêng.

Trước hết, tình hình Nhật chưa khả quan. Kinh tế Âu châu thì may lắm sẽ suy trầm, gọi là récession, mà có khi còn bị nặng hơn nữa, đó là nạn suy thoái, tức là dépression. Kinh tế Hoa Kỳ thì chưa thể hồi phục mà còn có thể bị rơi vào suy trầm nữa nếu Âu châu bị suy thoái. Tôi xin lỗi cứ phải phân biệt hai trạng thái, đó là suy trầm, nghĩa là chìm xuống, là còn nhẹ hơn suy thoái là khi kinh tế không tiến dù có chậm hơn mà còn lùi. Nếu lùi hơn nữa thì gặp khủng hoảng, là cấp nguy ngập thứ ba!

Một cách vắn tắt cho dễ nhớ thì nhiều trung tâm nghiên cứu trên thế giới, kể cả Quỹ Tiền tệ Quốc tế vào tuần qua, đã dự báo là đà tăng trưởng của kinh tế toàn cầu trong năm tới có thể chỉ là bình quân 3,5%. Nếu sụt đến 2,5% thì chúng ta lại có hiện tượng gọi là "suy trầm toàn cầu", theo định nghĩa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Trong tốc độ trung bình đó, Á châu có thể hy vọng duy trì được một đà tăng trưởng từ 6,5 đến 6,9% là nhiều. Nói ra thì có vẻ cao nhưng vẫn thua tiềm năng bình thường của châu Á, mà nếu không khéo thì có thể sụt tới mức thấp hơn năm 2009 là chỉ có chưa đầy 6%

RFI : Người ta giải thích thế nào về hiệu ứng bất lợi xuất phát từ kinh tế Âu Châu và Hoa Kỳ?

Nguyễn Xuân Nghĩa : Giữa năm ngoái, khối kinh tế Âu Mỹ đã từ hoàn cảnh đình đọng, yết ớt và bấp bênh trôi vào trạng thái bất trắc là đánh sụt niềm tin của thị trường về khả năng quản lý và ứng phó với khủng hoảng ở cả hai bờ Đại Tây Dương. Hậu quả là năm nay, khối kinh tế gọi là tiên tiến này phải cùng lúc đánh vật với những đòi hỏi mâu thuẫn. Tại Âu Châu, đó là nguy cơ vỡ nợ vì gánh công trái của nhiều nước, là yêu cầu trả nợ gây ách tắc tín dụng cho các ngân hàng, là sự mong manh của đồng Euro và khả năng dàn xếp rất khó của lãnh đạo chính trị. Tại Hoa Kỳ thì đó là cuộc tranh luận còn kéo dài giữa việc tiết giảm bội chi ngân sách hay tăng chi để kích thích kinh tế, và tăng thuế hay giảm thuế để kích cầu. Mà năm nay nước Mỹ lại có tranh cử lớn!

Trong bối cảnh quốc tế đó, các nền kinh tế Á Châu nào mà quá lệ thuộc vào thị trường bên ngoài đều điêu đứng. Đó là hoàn cảnh của Nam Hàn, Hong Kong, Đài Loan, Singapore, Thái Lan và cả Việt Nam. Các nền kinh tế của Ấn Độ, Indonesia hay Trung Quốc có thể ít bị hiệu ứng quốc tế hơn. Nhưng riêng Trung Quốc thì lại có mầm khủng hoảng nội tại của họ vì động loạn xã hội và khó duy trì được mức tăng trưởng cao hơn cái ngưỡng sinh tử là 8%. Mà y như Hoa Kỳ, năm nay Trung Quốc cũng chuẩn bị thay đổi lãnh đạo vào cuối năm nên cũng có gặp ách tắc và bị tê liệt về chính sách ứng phó.

RFI : Như anh vừa trình bày thì biến cố kinh tế nơi này có thể ảnh hưởng đến nơi khác. Nhưng anh có thể nào trình bày cho rõ hơn là chịu ảnh hưởng qua những ngả nào?

Nguyễn Xuân Nghĩa: Ta nên nghĩ đến hai cơ phận chuyển lực như hai sợi dây "courroie". Thứ nhất là ngoại thương hay mậu dịch khi hai khối kinh tế mua bán với nhau. Thứ hai là mối quan hệ tài chính qua trao đổi tư bản.

Về ngoại thương thì việc cả Hoa Kỳ và Âu Châu, nhất là Âu Châu, sẽ phải giảm chi, gia tăng tiết kiệm và tiêu thụ ít hơn tất nhiên sẽ đánh sụt mức nhập khẩu, tức là số xuất khẩu của Á Châu. Khi số bán hàng giảm, các nước sẽ sản xuất ít hơn và trước hết ít mua hàng của một xứ Á Châu khác đem về chế biến rồi bán qua các thị trường Âu Mỹ. Một thí dụ mà doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc hiểu ngay là khi Việt Nam bán ít giày dép và hàng may mặc cho Liên hiệp Âu châu hay Hoa Kỳ thì Việt Nam cũng ít mua nguyên vật liệu của Trung Quốc về ráp chế lại.

Về sợi dây chuyển lực trong lĩnh vực tài chính thì khi các ngân hàng Âu Châu phải tích cực trả nợ, việc tài trợ giao dịch ngoại thương tại Á châu cũng thành tốn kém hơn, lý do là Á châu cần tín dụng loại ngắn hạn cho nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Thứ nữa, các ngân hàng đều cần huy động ký thác và nhu cầu ấy tất nhiên đẩy lãi suất huy động lên cao hơn và thực tế thì sẽ nâng phân lời tín dụng, và hiện tượng ấy có thể kéo dài nhiều năm....

Cho nên, may lắm thì Á châu hy vọng ra khỏi khó khăn vào năm 2013, nhưng vẫn chỉ là hy vọng thôi vì từ nay đến đó, ngoài thiên tai người ta còn sợ nhân hoạ, là sai lầm của con người về chính sách! Trong khi ấy, ta cũng không nên quên là nhiều nước Á châu đang bị hậu quả từ những sai lầm về chính sách trong các năm trước. Trường hợp Việt Nam là một điển hình !

RFI: Về trường hợp của Trung Quốc thì lo ngại chính mà các chuyên gia nêu lên là điều gì sẽ xảy tới với các nước châu Á nếu như cỗ máy kinh tế đồ sộ của ông khổng lồ châu Á này không được hạ cánh nhẹ nhàng ? Tức là Bắc Kinh không duy trì được tỷ lệ tăng trưởng trên dưới 8 % như mong đợi mà GDP của nền kinh tế thứ nhì trên thế giới đó chỉ tăng 5 % trong năm. Giả thuyết này đã được công ty phân tích về tài chinh IHS Global Insight đề cập tới.

Cuối cùng là núi nợ của các chính quyền địa phương Trung Quốc : theo các thống kê chính thức của Trung Quốc tính đến cuối 2010, tổng nợ công của các thành phố, tỉnh thành lên tới gần 11 000 tỷ nhân dân tệ, (1.300 tỷ euro) tương đương với 27 % tổng sản phẩm nội địa Trung Quốc.

Nhưng theo thẩm định của Moody’s thì trên thực tế núi nợ đó là trên dưới 15 000 tỷ nhân dân tệ và có từ 8 đến 10% khoản tiền đó coi như là nợ khó đòi. Qua đó đe dọa trực tiếp đến hệ thống ngân hàng Trung Quốc.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
“Tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.” Tạp chí Xây Dựng Đảng (XDĐ) đã báo động như thế trong bài viết ngày 26/11/2023...
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.