Hôm nay,  

Hoa Tử Đằng trong văn chương và nghệ thuật Nhật Bản

19/05/202300:00:00(Xem: 1410)

Tranh Tử Đằng
Bức tranh Tử Đằng và Chim Chìa Vôi của Hokusai.

 

Dọc đường tôi đi bộ bên bờ kênh Delaware và Raritan, khoảng cuối tháng Tư có loại hoa màu tím nhạt nở từng chùm treo lúc lỉu trên những cành cây; thấp thì sà xuống mặt nước, cao thì cách mặt đất chừng chục mét.  Hoa thuộc loại dây leo, nở lâu sắp tàn thì màu tím nhạt dần rồi biến thành màu trắng; khi chưa nở, nụ hoa trông giống như những hạt đậu màu tím.  Có lẽ vì thế người ta gọi là cây đậu tía.  Hoa còn có tên khác, đẹp hơn.  Hoa Tử Đằng.  Có người giải thích, Tử là màu tím; Đằng là chữ dùng chung cho loại dây leo.

Tử Đằng chịu không khí lạnh, thích chỗ vừa có nắng vừa có bóng mát, nở vào mùa xuân trong vòng hai hoặc ba tuần rồi tàn.  Tử Đằng ít khi gặp trong văn thơ Việt nhưng được nhắc đến rất nhiều trong văn chương và nghệ thuật của Nhật Bản.

Màu hoa của Tử Đằng thường được so sánh với màu hoàng hôn.

Trong một chuyến du hành, sau khi đi bộ suốt ngày đến Yoshino, Basho và Tokoku (học trò và cũng là người đồng hành của Basho) cố tìm một chỗ ngủ giá phải chăng để nghỉ ngơi.  Tình cờ, họ bắt gặp bụi hoa màu tím nhạt.  Màu tím là màu của hoàng hôn.  Có lẽ chiều xuống cùng với sự mệt mỏi đang tràn ngập cơ thể ông.  Basho viết bài haiku như sau:

Over wearied,
And seeking a lodging for the night, -
These wisteria flowers!
[1]

-         Basho
Mệt mỏi tột cùng
Tìm lữ quán trú ngụ qua đêm
Nhìn thấy chùm tử đằng. [2]
 
Haku Rakuten[1] có bài thơ:

The Last Day of the Third Month[2] at Jionji Temple - Một ngôi chùa cổ ở Yagamata Prefecture.
That morning, spring was at an end in Jionji;
All day long I wandered near the temple gate.

However we grieve, spring will not tarry or return;
Yellow twilight was falling under the purple wistaria flowers.
[1]
Ngày cuối tháng Ba ở chùa Jionji
Sáng hôm ấy, cuối mùa xuân ở chùa Jionji;
Suốt này ta thẩn thơ gần cổng chùa.
Dù có tiếc nuối đến dường nào, mùa xuân cũng sẽ không chậm bước hay là quay trở lại;
Hoàng hôn vàng vọt rơi trên những chùm hoa tử đằng tím ngát. [2]
 
Một ngày mùa xuân nằm dưỡng bệnh, Shiki viết:

Clusters of wisteria in the vase;
The flowers hang down,
In the sick room;
Spring begins to darken
.
-         Shiki [1]
Từng chùm tử đằng trong bình cắm hoa
Hoa treo lủng lẳng
Trong phòng bệnh;
Mùa xuân bắt đầu chìm vào bóng tối. [2]
 
Dưới giàn hoa Tử Đằng thường là nơi lý tưởng để hẹn hò, đôi khi là chỗ chia tay.
Nhà thơ Buson có lần nhìn thấy một đôi nam nữ ngồi dưới giàn tử đằng.  Ông viết bài thơ như sau:
Wisteria flowers;
Resting under them,
A strange couple.
[1]
-         Buson
Hoa tử đằng
Ngồi nghỉ dưới hoa
Hai người kỳ lạ. [2]

Bài thơ tiếng Nhật của Buson dùng chữ “ayashiki” khiến người đọc cảm thấy có cái gì đó không được bình thường.  Cách họ ngồi, cách họ trò chuyện với nhau, có vẻ như là hai người đang chạy trốn.  Có lẽ người đàn ông trốn ông chủ của chỗ làm.  Người đàn bà trốn nhà hoặc trốn hoàn cảnh gia đình không vui.  Điều đáng chú ý ở đây là hai người ngồi dưới giàn hoa, những chùm Tử Đằng đong đưa trên đầu họ.  Cả hai không để ý đến vẻ đẹp của hoa vì đang bận tâm đến số phận của họ.

Flowers of the wisteria;
Only hanging down their heads
At the parting.
-         Etsujin [1]
Hoa tử đằng
Treo trên đầu họ
Buổi từ ly. [2]
 
Tử Đằng tiếng Anh là Wisteria, hoặc là Wistaria.  Ở Nhật, Tử Đằng thường là loại wisteria floribunda, có nghĩa là chùm hoa nở xum xuê.  Vì nụ hoa có hình dáng của hạt đậu, lúc mới đến Anh quốc, nó được gọi là Carolina kidney bean.  Người Á châu lúc ban đầu xếp tử đằng vào chung loại với đậu nành.[3]

Tử Đằng được mang tên của Dr. Caspar Wistar, giáo sư y khoa của Đại học Pennsylvania kiêm nhà nghiên cứu thực vật.  Hoa vì vậy ban đầu có tên Wistaria, nhưng vì có người vô ý nên viết thành Wisteria.  Hoa bắt đầu có tên từ năm 1818.

Theo người Nhật, hoa tử đằng là tượng trưng cho tuổi trẻ và thi ca.  Mặc dầu hoa nở vào tháng Tư, nó thường được dùng làm biểu tượng của mùa hè.  Theo truyền thuyết dân gian Nhật Bản, rễ của cây tử đằng được nuôi dưỡng nếu rượu sa kê được rót vào dưới gốc; do đó, khách viếng thăm các vườn hoa hay công viên Nhật Bản thường được khuyến khích rót rượu sa kê vào dưới gốc cây để cây được trổ hoa nhiều hơn. 
 
Wisteria được danh họa Hokusai đưa vào bức tranh chung với loài chim wagtail.  Có lẽ vì chim có cái đuôi dài giống như cái que quẹt vôi lên lá trầu nên được gọi là chim chìa vôi.

Chim chìa vôi thường ngúng nguẩy cái đuôi dài.  Hình chim chìa vôi được đặt dưới phần cuối của chùm hoa tử đằng.  Giữa ngọn dây leo uốn lượn cuối chùm hoa tử đằng và con chim chìa vôi là hai câu đầu tiên trong bài thơ có tựa đề “Aged Wisteria” của nhà thơ Qian Qi (AD 710? – 780?) đời Đường.

Reaching tendrils emerge from the towering trees
Dangling threads cover the nesting crane.[4]
Ngọn dây leo ngoằn ngoèo xuất hiện từ ngọn cây cao vút
Cành cây mềm đong đưa che khuất chim hạc đang nằm trong tổ. [2]
 
Hoa Tử Đằng là biểu tượng của một thiếu nữ cành vàng lá ngọc.

Tử Đằng dễ trồng.  Nhìn hoa mọc hoang dọc bờ kênh, hay trong sân nhà hàng xóm, tôi không ngờ nó được xem là loại hoa quí giá xứng đáng được vua chúa ngắm nhìn.  Đi xem một vài ngôi chùa nổi tiếng ở Nhật, thấy vườn nào của chùa cũng có giàn Tử Đằng.  Byodo-in, trước là ngôi biệt thự dành cho hàng vương giả được hiến dâng cho chùa để làm chỗ cho vua tu, có giàn hoa tử đằng.  Ngồi trước chánh điện của chùa có thể ngắm hoa vào mỗi buổi chiều tà.

Trong “The Tale of Genji” (Truyện Genji) có một chương tựa đề là Fuji no Uraba có nghĩa là lá mới của hoa tử đằng.  “Fuji no uraba” được trích trong một bài thơ cổ.  Tō no Chūjō đã dùng câu thơ này để ngỏ ý muốn gả cô con gái tên là Kumoi no Kari cho Yūgiri, hoàng tử con trai của cựu hoàng đế Genji. 
Vào một ngày xuân, hoa tử đằng nở rộ, hương hoa thơm lừng trong gió. Tō no Chūjō cho mở tiệc mừng hoa nở và mời hoàng tử Yūgiri, con của Genji, đến dự.  Genji lúc ấy đã nhường ngôi cho con trai cả.  Tō no Chūjō đang giữ chức vụ “Palace Minister” (không dịch vì không rõ chức vụ tương quan trong tiếng Việt).  Yūgiri, 18 tuổi đã có tình ý với Kumoi no Kari.

Càng về chiều hoa Tử Đằng càng đẹp.  Tō no Chūjō gửi thư mời chàng rể tương lai.  Lá thư được gắn vào một cành hoa.
“In the dim twilight, wisteria round my home glows in vivid hues: will you then not come to see this, the last bounty of spring?”[5]
Trong ánh sáng hoàng hôn, hoa tử đằng quanh nhà tôi ánh một màu tím ngát: Hoàng tử có đến xem không, vẻ đẹp sắp tàn của mùa xuân? [2]

Bữa tiệc mừng hoa Tử Đằng kéo dài đến tối, trăng lên hoa càng thơm càng đẹp.  Mọi người trong buổi tiệc trao đổi với nhau những câu thơ có nhắc đến hoa tử đằng.  Một trong những câu thơ về hoa Tử Đằng, đáng nhớ nhất trong đêm ấy là câu thơ của Kashiwagi, con trai lớn nhất của Tō no Chūjō, cũng là kẻ bạo gan nhất, dám trộm ái phi của Hoàng đế Genji.

“The wisteria that in tender bloom recalls a fair maiden's sleeves no doubt looks lovelier still to a ravished watcher's eyes.”
Tử đằng đang nở hoa gợi nhớ đến tay áo của một cô gái xinh đẹp, càng xinh đẹp hơn trong đôi mắt của kẻ đang thầm yêu trộm nhớ. [2]
 
Tử Đằng được quí trọng trong nghệ thuật Nhật Bản.  Hình dáng tử đằng được ghi khắc trong những cách trang hoàng mũ đội, tay áo, dấu ấn của danh gia vọng tộc.  Một trong số rất ít các vở kịch kabuki cổ còn tồn tại cho đến ngày hôm nay là vở kịch múa Fuji Musume.  Vở kịch này được trình diễn lần đầu tiên vào năm 1826.  Vở kịch múa này không có cốt truyện.  Chủ yếu là âm nhạc được biểu diễn bằng tiếng đàn, Katsui Genpachi viết lời bài hát, diễn viên Seki Sanjuro thay đổi y phục năm lần và điều quan trọng nhất là cái đẹp, cái thần của vở kịch được diễn xuất qua điệu múa.  Năm 1937, một kịch tác gia khác, Oka Onitaro, đã cho người vũ công biến thành linh hồn của hoa tử đằng.
Cũng là màu tím, nhưng hoa tử đằng có dây leo mềm mại, chùm hoa đong đưa khiến ta nghĩ đến một người con gái ẻo lả, mong manh.  Một hình ảnh ngược lại với hoa mộc lan (magnolia) đầy đặn và sung mãn. 
Issa có bài thơ:
Where the spring sun
Sinks down, -
The wisteria flowers.
Nơi mặt trời mùa xuân
Lặn xuống
Hoa tử đằng [2]
Tử đằng gợi người ta nghĩ đến một thiếu nữ đẹp, màu tím như màu của buổi chiều, của nơi mặt trời chìm xuống.  Câu thơ của Issa làm tôi nghĩ đến một vài câu hát Việt “Chiều tím, chiều nhớ thương ai.  Người em tóc dài.”  Và.  “Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt.  Chỉ thấy lòng nhớ thương chất ngất.”
 
Nguyễn Thị Hải Hà 
 
Ghi chú:
[1] Những bài haiku tiếng Anh trích trong Haiku: Spring của R. H. Blyth. 
[2] Nguyễn Thị Hải Hà phỏng dịch từ những bài haiku tiếng Anh.

[1] Tên một vở kịch Noh.

[2] Tháng Ba Âm lịch là vào khoảng tháng Tư Dương lịch.

[3] From A Contemplation Upon Flowers Garden Plants in Myth and Literature – by Bobby J. Ward

 

[4] Bài thơ này xuất hiện trong tập thơ số 10 trong tuyển tập toàn thể thơ Qian kao gong ji của nhà thơ.  Notes của Asano Shugo.

[5] Shikibu, Murasaki. The Tale of Genji: (Penguin Classics Deluxe Edition). Penguin Publishing Group. Kindle Edition. 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật, nó cũng là một phần của Bà la môn giáo và Kỳ na giáo, nhưng không phổ quát: Triết lý Thiên định (Ājīvikas) tin là tái sinh được thúc đẩy bởi một động lực của định mệnh phi cá nhân, và đúng hơn là thuộc về nghiệp cá nhân...
Đất nước là nhu cầu sống thực của con người. Đất dụng canh, nước sinh cư tạo lương thực nuôi con người trong hệ hoàn vũ. Theo công kỹ nghệ gia tổng kết thì ngành nông nghiệp trên thế giới ngày nay đang tiêu thụ với tỷ lệ 65% số lượng nước, công nghiệp chi dụng 25%, và gia cư hao tốn 10%, cùng với số lượng nước hao cạn hàng giờ trong mỗi ngày trên toàn cầu, khi nhiệt độ và thời tiết tăng trưởng...
Theo thói quen đa số người Việt gốc miền Nam Việt Nam đều chỉ trích Hoa Kỳ, đặc biệt là Đảng Dân Chủ, đã bỏ rơi VNCH. Tin tưởng này được tăng cường bởi những lập luận thiếu căn bản dựa trên những tài liệu thiếu cập nhật của những cố vấn cũ của ông Nguyễn Văn Thiệu. Ít người có can đảm và tính chất vô tư để nhìn vào sự thật...
“Trung Cộng muốn đưa quân tràn qua biên giới Việt Nam để đánh lạc hướng và cầm chân quân đội Bắc Việt, ngăn chận cuộc tổng tấn công Miền Nam đang tiến hành,” Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bửu Viên nói với chúng tôi ngay sau cuộc rút quân khỏi Pleiku (15/2/1975). Ít lâu sau, lại được nghe Ngoại Trưởng Vương Văn Bắc cho biết sau một cuộc Họp Nội Các, rằng: “TC có liên lạc và đề nghị một kế hoạch để tiếp cứu VNCH, nhưng TT Thiệu đã từ chối.” Vào thời điểm ấy thì chúng tôi cho rằng câu chuyện TC muốn can thiệp để ngăn chận cuộc tấn công của BV là hoang tưởng, viển vông nên không để ý, và sau này cũng quên không hỏi thẳng TT Thiệu.
Vào thế kỷ 18, Đảng Dân Chủ Cộng Hòa (Democratic Republican Party) được gọi tắt là Cộng Hòa (Republican) hoạt động ở Hoa Kỳ do Thomas Jefferson và James Madison thành lập, nhằm chống lại chủ trương và chính sách của Đảng Liên Bang (Federalist Party) lãnh đạo bởi Luật Sư Alexander Hamilton hoạt động mạnh về kinh tế, xã hội, ngoại giao...
Các di tích bằng đá gọi là megalith rải rác khắp nơi trên thế giới, tiếng Việt gọi là “cự thạch” (“cự” có nghĩa là lớn như trong cự phách, cự đại, cự phú, dịch prefix mega; thạch là đá)...
LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ . Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", và sắp xuất bản cuốn BỨC TỬ VNCH - KISSINGER VÀ 8 THỦ ĐOẠN NHAM HIỂM. Bước vào tháng Tư, mời đọc bài bài viết đã đăng trên báo xuân Việt Báo Ất Dậu (2005), vừa được tác giả gửi lại bản có hiệu đính.
Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng và chưa có bảng thống kê về ngôn ngữ, kể từ khi có mặt loài người sống trên hành tinh trái đất này. Có hàng trăm, hàng ngàn, hàng vạn ngôn ngữ khác biệt nhau, và chưa có ai qủa quyết con số chính xác về ngôn ngữ từng được sử dụng trong lịch sử phát triển của xã hội con người...
Cho dù Hoa Kỳ trong thế yếu không còn thúc đẩy Trung Quốc dân chủ hóa nhưng bù lại cả hai chính quyền Bush (con) và Obama đều bang giao với Trung Quốc như một đối tác trách nhiệm (responsible party). Thực tế trái ngược vì tham vọng địa chính trị của Bắc Kinh tăng theo đà phát triển kinh tế nên Trung Quốc không còn muốn nép mình trong trật tự thế giới tự do (liberal world order) do Mỹ lãnh đạo...
Tháng Ba là tháng vinh danh những đóng góp của người phụ nữ cho xã hội, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nước khác. Nhà văn người Anh Charlotte Brontë (1816-1855) đã viết trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của bà “Jane Eyre,” được xuất bản vào năm 1847, rằng, “Tôi không phải là chim; và không có cái lưới nào bẫy được tôi: Tôi là một con người tự do với ý chí độc lập.”Charlotte Brontë đã khai hỏa trên mặt trận văn chương cho cuộc chiến kéo dài hàng nhiều thế kỷ để đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ trong xã hội mà tới hôm nay vẫn chưa thực sự chấm dứt. Những thanh thiếu nữ tại Afghanistan đã và đang bị cấm thừa hưởng nền giáo dục học đường mà đáng lý ra các em phải có được! Nhưng, không phải chỉ ở thời đại của tác giả “Jane Eyre” người phụ nữ mới gióng lên tiếng nói tự do và độc lập mà trong lịch sử nhân loại từ xưa tới nay người phụ nữ đã bao lần lên tiếng, xuống đường để tranh đấu cho tự do và độc lập của họ cũng như của xã hội và đất nước họ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.