Hôm nay,  

Nhà Thơ Nguyễn Lương Vỵ: Tập Thơ Tri Ân Nguyễn Trãi

19/03/201300:00:00(Xem: 7118)
Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ vừa xuất bản tập thơ mới, nhan đề “Tám Câu Lục Huyền Âm.” Và đây là tập thơ thứ bảy của ông.

Thi tập này được ghi là để “Tri ân tiền bối Nguyễn Trãi.”

Tập thơ dày 154 trang, bìa sau có chân dung tác giả do họa sĩ Trương Đình Uy6en vẽ, bìa trình bày chung với Lê Giang Trần.

Trả lời phỏng vấn của Việt Báo, nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ nói rằng các bài thơ trong tập này là sáng tác từ 2010-2013, trong đó có 32 bài -- với thơ thể 6 chữ, công gọi là thơ lục ngôn, gồm 9 bài; thơ ngũ ngôn, gồm 8 bài; và rồi thơ thể 8 chữ.

Nhà thơ nóí, qua thi tập naỳ, ông muốn tìm về nguyên ủy tiếng Việt, và đặc biệt trong thể thơ mà ông gọi là “thơ lục ngôn bát cú,” ông sử dụng kỹ thuật mới về đối chữ.

Có thể thấy một điển hình của pháp đối này qua bài Dốc Trăng Cổ Xứ, do ông sáng tác tháng 12-2010, thử trích đoạn thứ ba của bài:

A ha ta về cố xứ
Dốc trăng gót lữ động tình
Tình buốt buốt vuốt ngực hú
Niềm lâng lâng đắp nắng thinh
Trăng lặn dốc mù địa phủ
Trời nhô bóng rợp thiên tinh
Một tràng kinh về đông đủ
Chiêm bao gió lú rùng mình… (trang 9)
nguyen_luong_vy_3_16_2013
Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ đang ký tên vào tập thơ mới.
Người Việt thường quen với thơ bát cú thất ngôn (8 câu, 7 chữ), tuy nhiên thể thơ mới do Nguyễn Lương Vỵ thực hiện trong tập này không hoàn toàn là biến đổi từ thể cổ thi, nhưng nhóm 4 câu giữa bài đều hầu hết đã đối nghiêm chỉnh cả thanh lẫn nghĩa.

Như “niềm lâng lâng” đối với “tình buốt buốt”... Hay “trăng lặn dốc mù địa phủ” với “trời nhô bóng rợp thiên tinh.”

Tương tự, một số câu khác trong bài “Gửi Quốc Âm,” trước đó ông chụp lại một ảnh chữ Nôm từ tập Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi. Trong đoạn thứ VII của bài này, Nguyễn Lương Vỵ viết như sau:

VII.
Lá thu mưa đóa huyết thi
Đầu cây ngọn cỏ thầm thì
Chim bay về rợp võng nắng
Gió cuốn đi chớp quầng mi
Nghiêng tai nghe âm trổ nụ
Ghé mắt thấy chữ phương phi
Xoa tay nhặt năm tháng cũ
Mầm tươi vừa nhú diệu kỳ…(tr. 17)

Thấy ngay hình ảnh: “Chim bay về” và “Gió cuốn đi”... hay “Nghiêng tai nghe âm trổ nụ” đối với “Ghé mắt thấy chữ phương phi”...

Nhưng không phảỉ phép đối kiểu cổ thi làm mất bản sắc Nguyễn Lương Vỵ. Vì tho của ông vẫn có một sắc màu rất riêng: chữ cổ kính, nhưng câu rất mới; khổ thơ vuông vắn, kỷ cương nhưng nghĩa vẫn đau thương, trầm uất một kiểu rất riêng tư.

Chữ cổ kính như: dốc trăng cố xứ, dốc trăng khuyết đĩa dầu hao, chào cố xứ, phong dao mài thanh kiếm sắc, thủy cầm, mái đình tợ cổ cầm, giấc thạch cầm...

Nhưng biến thành những câu rất mới như:

Nhớ quá dốc trăng cố xứ
Hít một hơi ứ thiên cao... (tr. 7)
Hay, cũng rất mới là các câu:
Nếp trán vết hằn tâm sự
Dốc trăng khuyết đĩa dầu hao…(tr.7)

Trong khi đó, ngôn ngữ Nguyễn Lương Vỵ đã hiện thân rất mực mới lạ và đẹp tuyệt vời là trong lời ngợi ca Nguyễn Trãi:

Sống trong veo như nhật nguyệt
Chết tịch mịch tợ cổ câm
Bè mây trắng vang câu hát
Nước non trở giấc thạch cầm… (Gửi Quốc Âm, tr. 11)

Hình như không mấy người ngợi ca Nguyễn Trãi thơ mộng như thế. Thi sĩ đã nhìn thấy nước non phải trở giấc thạch cầm vì thương cho tâm hồn trong veo như nhật nguyệt của Nguyễn Trãi...

Mặt khác, các khổ thơ Nguyễn Lương Vỵ đều vuông vắn, kỷ cương. Kể cả những bài thơ 6 chữ, hay bài 5 chữ, hay bài 8 chữ. Người đọc có cảm giác rằng thi sĩ họ Nguyễn đã cẩn trọng từng chữ, cân nhắc từng vị trí đối nghĩa, đối âm, đối chữ đơn hay đối chữ ghép.

Nhưng dù vậy, thơ Nguyễn Lương Vỵ không phải là kiểu cổ thi như người xưa. Trong thơ có những dòng nước mắt rất riêng, trong đó chữ như vang lên nỗi đau. Thí dụ, từ bài Niệm Khúc:

Không gian đưa tay vẫy
Thời gian nhón gót về
Ngã tư nằm lóng nghe
Ngã ba rao lạc giọng... (tr. 88)

Phải chăng thi sĩ họ Nguyễn đã hít thở được với cả những không gian bên kia và thời gian ngoài nớ, để rồi sống nơi cõi này mà hệt như lơ lửng nơi ngã tư và nghe những ngã ba khản giọng vì tiếng gọi từ “Gọi ta xưa biệt tích, Phải đâu trong u tịch” (cùng tr.88).

Đây là một tập thơ xuất sắc, và là những dòng chữ tuyệt vời mà Nguyễn Lương Vỵ có thể viết cho cụ Nguyễn Trãi.

Tập thơ đề giá 18 Mỹ Kim. Có thể liên lạc trực tiếp tới tác giả: Nguyễn Lương Vỵ, nguyenluongvy@yahoo.com hay cell phone (714) 260-5572.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công...
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, cần phải phân loại, xác định rõ ràng các loại “địch” để tìm cách đối phó hoặc vận động gây cảm tình làm đồng minh, tùy loại địch. Mọi người thường nói, “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” là vậy.
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.