Hôm nay,  

Đường Về Thủy Phủ: Khi Mặt Trời Mọc Là Mình Đến Nơi

12/07/202400:00:00(Xem: 4542)

TYT_DVTP_PreOrder

Sách có bán trên BARNES & NOBLE

326 trang, bìa cứng, 6” x  9”, giá bán: US$25.00

Xin bấm vào đường dẫn sau: 

Duong ve thuy phu by Trinh Y. Thu, Hardcover | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)

Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gic, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác.

Là một tác phẩm siêu hư cấu không có chủ ý đáp ứng những quy củ tiểu thuyết thông thường, Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư là một tập hợp của ba câu chuyện, ba toa riêng lẻ của một chuyến tàu, vận hành trên cùng một đường rầy thiên lý, theo chiều dài của một giai đoạn lịch sử chiến tranh tanh nồng, nơi hành khách là những nhân vật bị ném lên tàu, vất vưởng chuyển động trên một trục cố định, dốc toàn bộ sức lực và trí tưởng tượng gắng tìm cho mình một lối thoát, hay theo tác giả, tìm một lối về.

Chuyến tàu thật ra không khởi hành từ những ngày binh đao khói lửa, mà xuất xứ từ một chốn thanh bình nơi “Ký ức của loài bò sát” hay phần I, câu chuyện thứ nhất bắt đầu, với lời kể chuyện của một ông già chín mươi tư tuổi:

“Để tiếp chuyện ông bạn trẻ từ nước ngoài xa xôi vạn dặm lặn lội về đây thăm, tôi sẽ kể ông bạn nghe câu chuyện thời mới lớn của tôi sống trên mảnh đất rách rưới tang thương này.  Bởi vì chỉ có mấy năm trời ấy là có đôi điều đáng nói, còn lại mấy chục năm sau, chỉ là đồ bỏ, chẳng đáng gì.”

Ngược dòng thời gian, ông già chín mươi tuổi bấy giờ là một cậu bé 13 tuổi lớn lên trong khung cảnh yên lành từ một gia đình người Hà Nội khá giả, học ở trường Bưởi, một ngôi trường nằm ven Hồ Tây cảnh trí thơ mộng nơi ông già hay thằng bé đã có được“những buổi chiều thật đẹp nhìn ngắm không biết chán mặt gương sáng bạc của cảnh quan đẹp nhất Hà Nội.”

Khởi truyện với bối cảnh tiền chiến, câu chuyện đưa độc giả cùng nhân vật sống lại ký ức tuổi thơ vô ưu của những cậu học trò tinh nghịch, từ những chiều giắt ná bắn chim đến rủ nhau leo cây bị kiến cắn bi vắt vẻo chờ xem trộm:

“…cô gái chắc chắn hơn tuổi chúng tôi nhưng có lẽ không quá mười tám mười chín. Cô đi về phía hai cái vại sành đựng nước mưa được quây xung quanh bằng một tấm nan sơ sài. Cô mở tấm nan, không buồn khép lại mà từ tốn cởi hết quần áo máng lên chậu cây thâm thấp bên cạnh rồi cầm gáo múc nước giội lên người. Da cô trắng muốt, mái tóc đen xõa tung trên hai bờ vai tròn lẳn…”

Những ngày thanh bình chỉ hiện diện vỏn vẹn trong trên dưới mười trang giấy. Quân Nhật tràn vào chiếm đóng Đông Dương, chiến tranh bao trùm, miền Bắc rơi vào nạn đói Ất Dậu lấy đi sinh mạng của trên 2 triệu dân đen.

“Quê tôi dưới Thái Bình, cậu ạ. Mấy tháng qua làng tôi đói đến độ chết gần hết cả làng. Thoạt tiên là bọn trẻ con. Chúng chết nhanh lắm. Chỉ ba hôm không có cái ăn là bụng chúng ỏng ra, hai mắt như chó dại, ngồi đâu ngồi một chỗ, ruồi nhặng bám đầy mặt đầy người cũng không buồn xua đi. Chỉ một đêm là chết.”

Đó là lời của ông làm giò ăn thịt con, chôn vợ, đốt nhà rồi gia nhập đoàn người bỏ làng bỏ xóm thất thểu đi kiếm cái ăn để rồi người ta thấy ông tách về phía bờ sông và mất hút như “một điểm nhỏ xíu, vô cùng bé nhỏ, nhỏ đến độ không một chút trọng lượng giữa vũ trụ bao la này.”

Cũng như thân phận của hàng trăm ngàn thanh niên lớn lên phụng sự và “tỉnh ngộ” ở Bắc Việt, nhân vật chính trong truyện từ một cậu bé sống trong một gia đình Bắc Việt yên lành, no ấm, trở thành nạn nhân của chiến tranh loạn lạc, tan tác. Hơn ba thập niên lịch sử chiến tranh hằn khắc biến những giấc mơ bình dị của chàng trai Hà Nội thành một lão già “hiện thân hắn là cứt”. Lịch sử cuộc chiến qua cái nhìn của tác giả Trịnh Y Thư đầy dẫy những man rợ, xảo trá, ác độc của từng cá nhân và của cả một thể chế, nhưng cũng không thiếu mùi vị của lương tri con người nơi tình yêu và tình bạn, trong trí tưởng tượng của tác giả, là nguyên tố tranh đấu kháng cự giữ cho con người không gục ngã khi lý tưởng suy sụp. Tình yêu của chàng thanh niên dân quân và cô gái thiểu số, hay tình bạn của người phiên dịch hỏi cung và người tù nhân Pháp là thứ nhân tính mà chế độ cộng sản không thể “quản lý”.

Phần I kết thúc với cuộc hành trình về thủy phủ của mẹ con Xụ Phụn Phèn. Tác giả vẽ ra hình thể một xứ sở trong trí tưởng tượng của mình, nơi những đứa con lưu lạc có thể trở về. Trớ trêu thay, hình ảnh âm phủ, nơi tận cùng địa ngục, nơi cô bé hỏi mẹ: “Con thấy những xác người trôi bên cạnh, nhiều lắm, họ cùng về thủy phủ với mình, hả mẹ” lại là một hứa hẹn tươi sáng hơn thế giới u tối của hai mẹ con: “Khi nào mặt trời mọc là mình đến nơi.”  Chúng ta có thể hy vọng cùng với tác giả hay không? Liệu sự cạn kiệt, tận cùng có thể là nhân tố hồi sinh? Và con người có bao giờ gột rửa trút bỏ hết thống khổ trở thành vô tri vô giác như ký ức của loài bò sát?

Với phần I đóng lại trong giới hạn địa lý và những hệ lụy tác động từ cuộc chiến đối với người dân Bắc Việt, Phần II mở ra câu chuyện của người con gái miền Trung lưu lạc vào một thành phố miền nam sinh sống, rồi nổi trôi ra bắc trầm mình tự sát. Câu chuyện mở đầu: “Hôm cô tự kết liễu đời mình, cô mặc chiếc áo lụa trắng ra chợ huyện như một thói quen. Ra chợ nhưng cô không mua thức ăn như mọi lần về nấu cho cô và gã bác sĩ bộ đội ăn tối. Đầu óc cô hoàn toàn trống rỗng như tờ giấy trắng tinh...”

Tuy trong Lời ngỏ tác giả đã báo động rằng đây hoàn toàn là một tác phẩm siêu hư cấu, với tất cả các nhân vật và nơi chốn đều là sản phẩm của trí tưởng tượng do tác giả cảm nhận cuộc chiến qua tài liệu sách vở, nhưng độc giả đọc đến đây đã thấy mình gắn liền với các nhân vật và dễ dàng liên tưởng đến cái bối cảnh không gian lịch sử ấy. Khung cảnh miền Nam sau những ngày bị miền Bắc tiếp quản được tác giả dựng lên tài tình qua các nhân vật: lão bác sĩ bộ đội, vợ chồng người anh họ vượt biên, mụ tú bà vợ cán bộ, và cô gái ôm con đói rách bất lực có chồng học tập cải tạo chết mất xác trong rừng…

Sau 1975, Sài Gòn đổi đời, chính quyền cộng sản một mặt bắt hàng trăm ngàn người chồng, người cha đi học tập cải tạo, mặt khác tịch thu nhà, siết của, đẩy cả một thế hệ các bà vợ trẻ có con mọn ra đường lây lất, đói khổ. Nhân vật “Cô” trong câu chuyện thứ hai không gì khác hơn một phần tử sản sinh từ cái mà người cộng sản tự hào gọi là “chính sách khoan hồng” của Đảng và nhà nước. Nhân vật Cô tuy được hư cấu dựng lên từ chất liệu lịch sử, nhưng mang số mệnh của cả một thế hệ phụ nữ miền Nam không đủ sức phản kháng; họ sống cũng như chết, nổi trôi mặc số phận đẩy đưa như thể định mệnh đã an bài sẵn cho một đám tàn dân. Họ bị những người cùng phe khinh khi, ruồng bỏ, bị xã hội chà đạp xô ngã vào lòng phe thắng cuộc. Họ sống vừa với mặc cảm tội lỗi vừa với những hành hạ thân tâm của kẻ đánh mất cả lương tri lẫn quá khứ, mà tương lai, là một canh bạc, trong đó bản thân họ chỉ là một quân tốt đen của ván cờ đời oan khiên.

Với tất cả chà đạp, nhơ nhớp, bỉ nhục người đời dán lên thân phận của những người đàn bà lạc loài này, thì trong trí tưởng tượng của tác giả, nhân vật Cô là một người phụ nữ trẻ, đẹp, thích mặc chiếc áo lụa trắng.

Lớn lên ở miền Trung, cuộc sống Cô yên lành không hề thấy cảnh súng đạn giết chóc cho đến một ngày Mùng Năm Tết:

“Nó ập đến ngưỡng cửa nhà cô như một cơn lốc. Nó là cơn ác mộng, kinh hoàng. Đêm mùng Năm Tết, cha cô bị một toán sáu bảy người lạ mặt súng ống đầy người phá cửa xông vào nhà bắt dẫn đi…”

Tuy những trang sách này không gọi rõ tên cuộc tấn công, nhưng hình ảnh cuộc thảm sát Mậu Thân tại Huế đã dần hiện rõ với cảnh người mẹ của Cô đi tìm xác chồng:

“Bà ngồi xổm, hai tay bưng cái sọ người, ngắm nghía thật kỹ hàm răng trắng nhởn… Hai hốc mắt sâu hoắm của cái sọ người chĩa thẳng… Cái miệng nhe ra… Xem đến cái đầu lâu thứ mười tám thì bà biết chắc đây là đầu chồng bà.”

Mất cha, mất mẹ, bị cuộc đời xô đẩy, người con gái trong cuộc hành trình vô nam theo lời trăng trối của người mẹ đã tự cắm vào thân những vết sẹo không thể gột rửa. Nhưng có lẽ tác giả có trái tim nhân hậu, nên đã nhiều lần quẳng cho Cô những chiếc phao – ba nhân vật: người chồng, đứa con gái, và gã bác sĩ bộ đội – dù chỉ là những giai đoạn ngắn ngủi trong đời, dù thiếu vắng ngọn lửa tình yêu ấm áp, nhưng đủ giúp giữ Cô tạm thời ở lại, để rồi “Con người một khi bị kẹt cứng trong bi kịch đời sống, sớm muộn sẽ chọn cái chết cho chính mình?”

Một điểm khá thú vị xuất hiện nhiều lần trong Phần II là lối viết siêu hư cấu cho phép tác giả xâm nhập vào câu truyện, xâm nhập vào các nhân vật, lồng ý niệm và suy tư của tác giả vào trang sách, như thể nhắc nhở người đọc sự có mặt của người viết. Nhân vật bác sĩ bộ đội của Trịnh Y Thư khiến người đọc phần nào liên tưởng đến nhân vật Tomas của Kundera trong Đời Nhẹ Khôn Kham, một nhân vật được sinh ra từ một tình huống, một bối cảnh mà ở đây là tình hình miền Nam những ngày Sài Gòn thất thủ, dù muốn dù không dân trong Nam phải sống chung với các “đồng chí” Bắc Việt tràn như kiến lửa vào thành phố.

Là một bác sĩ phẫu thuật đã từng được gửi sang tu nghiệp bên Liên Xô, gã bác sĩ bộ đội đang say mê đời sống trong nam bỗng dưng được triệu tập về thủ đô làm việc với trưởng phòng Quân huấn, tên này là bạn học bên Liên Xô cùng thời với gã, hắn muốn đưa gã về thủ đô làm việc với điều kiện gã phải bỏ mối quan hệ với Cô gái. Gã từ chối. Không lâu sau đó gã bị chính quyền yêu cầu ký vào tờ công văn kỷ luật, gã bị tước danh hiệu sĩ quan, trở về đời sống dân sự mà không được hưởng một khoản phúc lợi quân nhân nào. Nhưng thay vì lo buồn, gã lại thấy “lòng thơ thới hân hoan, chưa bao giờ gã thấy nhẹ nhàng như vậy. Như bị táo bón lâu ngày, một hôm được tống ra sạch ruột non ruột già các thứ cặn bã dơ bẩn.”


Nhân vật bác sĩ bộ đội, như một tầng lớp trí thức miền Bắc trải qua cuộc khủng hoảng lý tưởng, đức tin sụp đổ, bám víu vào tình yêu thiêng liêng mà sống còn. Nghịch lý ở đây là Cô gái miền Trung-Nam bộ yếu ớt đáng thương nay không còn khả năng yêu thương, trong khi đó một gã bộ đội miền Bắc vốn bị người trong nam cho là phường gian ác, thiếu nhân tính lại yêu Cô bằng cả trái tim và sinh mạng còn lại: “Gã yêu cô. Từ đó cho đến hết đời.”

Có lẽ Phần II là cốt lõi của cuốn tiểu thuyết, là phần kết nối quá khứ với hiện tại, tương lai, với sự hiện hữu của các nhân vật của cả ba thế hệ, những con người đánh mất bản thể và lưu lạc trên chuyến tàu lịch sử đăng đẳng, chờ đợi một lần “tìm lại”, dõi trông một “cõi về”.  

Trong những trang cuối Phần II, nhân vật Cô hay người đàn bà với chiếc áo lụa trắng biến mất, kết lại câu chuyện với hình ảnh một ông già hằng ngày vác chiếu đến ngôi đền trên Cống Liệp, “một ngôi đền nằm giữa một vườn cây xanh rợp bóng mát trông ra biển.”

Về cơ bản, Phần I và Phần II tuy được viết dưới thể dạng vừa siêu thực vừa hư cấu, Phần III mới là siêu điểm của mọi sự bất thường, nơi câu chuyện, nhân vật, bối cảnh, ngôn ngữ, tình cảm, tất cả đều ra đời như một cuộc hẹn  siêu tưởng. Nhà văn nữ Virginia Woolf trong nhật ký của bà vào năm 1929 đã viết: “Tôi chán viết kể chuyện,” qua đó gợi ý rằng một cuốn tiểu thuyết được duy trì và tồn tại nhờ sự tấn công của các tiểu thuyết gia vào các quy củ truyền thống. Bằng cách phá vỡ bố cục, phát minh ra ngôn ngữ của riêng họ, tập hợp câu chuyện dài không bằng một cốt truyện, mà bằng nhiều tổ khúc nối kết nhau qua chủ đề hay phạm trù ý tưởng, lối viết tiểu thuyết này ra đời giữa thế kỷ 19. Trong khi John Simmons Barth, một nhà văn Hậu Hiện đại người Mỹ được cho là cha đẻ của thể loại này, thì tiểu thuyết gia tiêu biểu cho xu hướng siêu hư cấu - như tác giả Trịnh Y Thư đã nhắc tới trong phần Lời ngỏ - là nhà văn người Tiệp Khắc Milan Kundera với Tập sách cái cười và sự lãng quên. Người đọc thể loại này không để tâm đến sự liền lạc chặt chẽ của câu chuyện hoặc tin vào sự tồn tại có thật của các nhân vật, mà chú ý tập trung vào diễn tiến tư tưởng nhân vật, bối cảnh xã hội, lịch sử, những suy diễn thuận nghịch... Sự kết nối của bảy tổ khúc trong tác phẩm của Kundera chính là hai vế cái cười và sự lãng quên, trong khi đó Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư nối kết ba câu chuyện bằng những hệ lụy và thân phận lạc loài của con người dọc theo thời gian cuộc chiến dài trên 30 năm, xuyên suốt quãng đường từ Bắc, Trung, Nam, qua tận Hoa Kỳ.

Phần III với câu chuyện mang tựa đề chính của cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” có lẽ là phần thi vị nhất, được dàn dựng vào những năm sau khi cuộc chiến Vietnam War đã chấm dứt, tại một đất nước xa xôi cách trở một đại dương.

Mở ra bằng những lời tự sự của một nhân vật siêu hư cấu, một nhân vật ảo, Đường Về Thủy Phủ dẹp bỏ mọi quy tắc cấu trúc trật tự, mà hỗn loạn và xung đột từ chính sự ra đời và ý nghĩa tồn tại của nhân vật chính.

“Tôi thù gã nhà văn khôn tả. Tôi thù gã đến độ tôi muốn giết chết gã. Tôi ao ước có một mũi dao nhọn sắc lẻm cho tôi ấn sâu vào ngực gã với động tác êm nhẹ, từ tốn để trái tim gã khi bị mũi dao đâm thủng vẫn không hay biết mình đang bị đâm mà tiếp tục hân hoan…

Trái ngược với nhân vật chính của Phần II là một nhân vật vô tri vô giác không còn khả năng làm chủ tình cảm của mình được tác giả gọi bằng “Cô”, nhân vật chính của Phần III xưng “tôi”. Tuy ra đời là một nhân vật ảo, nhưng cô gái có bản tính nổi loạn với đầy đủ si mê, sân, hận. Cũng như tất cả các nhân vật khác trong cuốn tiểu thuyết, cô gái ra đời từ một bối cảnh của trên một triệu người Việt lưu vong đến sinh sống trên mảnh đất có nhiều ân oán nợ nần với quê hương họ.

Là một nhân vật ảo được tạo dựng để đáp ứng một nhu cầu, cô gái mơ hồ không hiểu vì sao mình hiện hữu:

“… tôi tự hỏi tôi muốn gì nơi cuộc sống này, những khao khát của người đàn bà trong tôi là gì, rồi ngay cả những ước mơ, những đòi hỏi thầm kín, tôi cũng hoàn toàn mù mờ, tất cả như đám mây chiều hư ảo hỗn độn ngoài kia. Tôi vẫn ngủ với gã nhà văn hằng đêm. Gã vẫn làm tình với tôi mặc dù tôi biết gã có những người đàn bà khác. Nhưng điều ấy có gì là hệ trọng lắm đâu khi tôi chỉ là hình bóng ảo của gã…”

Mối liên hệ giữa gã nhà văn và cô gái là một chuyện tình tiêu biểu của thời hiện đại, nơi hai người ở bên nhau ôm nhau ăn ngủ làm tình hằng đêm nhưng lòng vẫn cảm giác “hoang lạnh như khu nghĩa trang với những nấm mồ quanh năm không người thăm viếng.”

Nhân vật gã nhà văn ở đất nước xa xôi này là điểm nối dài những hệ lụy của cuộc chiến lấy đi sinh mạng của trên 60,000 lính Mỹ và để lại cả một thế hệ người Mỹ lạc lõng, vô hướng ngay trên chính quê hương của họ.

“Tôi cũng có cảm tưởng Thượng Đế bỏ quên tôi. Tôi tuột dần vào một tâm trạng khủng hoảng vô bờ, chẳng biết làm gì hôm nay, ngày mai đi đâu cũng chẳng có dự tính nào… Tôi đã ném tất cả mọi lý tưởng và hoài bão, cùng các thứ rác rến khác của tuổi trẻ, qua cửa sổ rồi. Tôi viết chỉ vì nếu không, tôi chẳng biết làm gì khác. Và kiếm tiền sống.”

Câu chuyện của gã nhà văn được tác giả trình bày trên một bề mặt giống như một tấm gương nứt, trong đó phản chiếu những mảnh ráp nối của đổ vỡ, mảnh lớn nhất là sự rạn nứt giữa tình cảm cha con:

“Hai chữ Việt Nam từ lâu đã là nỗi ám ảnh đen tối lớn cho cuộc đời tôi từ lúc trưởng thành. Vì nó, tôi và cha tôi không nhìn mặt nhau hơn hai mươi năm, từ thời tôi học năm thứ hai đại học cho đến khi ông gần lìa cõi đời. Năm 1965 trong lúc ông lái chiếc máy bay phản lực F-4 cùng các đồng đội của ông gầm rú đánh phá cầu Hàm Rồng hay một nơi nào đó trên cái mảnh đất xa xôi mù mịt bên kia bờ đại dương thì tôi và các bạn sinh viên trong trường đại học Yale đứng trước mặt hàng trăm Vệ binh Quốc gia đốt thẻ trưng binh.”

Tác giả mô tả sự xuống dốc, tan nát của cả một gia đình người cựu chiến binh Mỹ sau khi ông sống sót trở về, và sự hối hận dằn vặt của chàng thanh niên trên giường bệnh của người cha, sau tất cả những phản kháng, chống đối, để cuối cùng:

“Tôi ngồi cạnh ông, tay tôi nắm tay ông, nước mắt giàn giụa, cha con không nói với nhau lời nào, nhưng tôi nghĩ ông hiểu tất cả và tôi cũng hiểu tất cả. Cái cuộc chiến phi lý và khốn nạn ấy đã cướp mất của cha con chúng tôi hơn hai mươi năm. Suốt cuộc đời sau đó của tôi, tôi sống trong ân hận và cố tìm kiếm một cái gì khả dĩ giúp tôi vơi bớt nỗi buồn khổ dằn vặt khôn nguôi.”

Trong khúc quanh của câu chuyện, người đọc cảm nhận được bàn tay vô hình của tác giả thò vào tấm gương bẻ cô gái từ nhân vật chính thành biến thể trong mảnh gương vỡ của gã nhà văn, cho cô ra đời như một sứ mệnh cứu chuộc lỗi lầm của gã. Cứ như thế, suốt câu chuyện, hai nhân vật, hai thực thể xung đột trong chiếc kính vạn hoa không ngừng phóng lên những tấm ảnh vạn hình thể của hai tâm hồn ở tận đáy sâu bản ngã, cô đơn, trống trải, xa vắng, bên nhau mà vẫn luôn thất lạc nhau…

Những tấm ảnh tiếp tục lóe lên như những thước phim đậm lạt sáng tối phác họa nhiều thể dạng của sự xấu, cái đẹp… và cuối cùng dừng lại. Tại một mảnh đất xa xôi nơi mà quá khứ cha ông đã ném hai thân phận sinh ra ở hai bờ đại dương vào cùng chuyến tàu lịch sử, họ tìm ra nhau. Trái tim được bồi dưỡng chữa lành bằng tất cả tình yêu thương, sự hiểu biết còn nguyên vẹn truyền từ bao thế hệ.

Đường Về Thủy Phủ kết lại với cảnh cô gái và ông già “níu nhau hướng về ngôi đền le lói ánh đèn trên mỏm đất cao.” Có lẽ đây cũng là ước mong thầm kín của tác giả, bằng một phép mầu nào đó, một ngày nào đó, triệu người Việt lưu lạc trên thế giới này sẽ có ngày tìm thấy đường về, dù “thủy phủ” chỉ hiện hữu đâu đó trong ước mơ, hay trong niềm tin.

Nina Hòa Bình Lê

Irvine, 5 Tháng Bảy, 2024


***
 

Sách có bán trên BARNES & NOBLE

326 trang, bìa cứng, 6” x  9”, giá bán: US$25.00

Xin bấm vào đường dẫn sau:l

 

Duong ve thuy phu by Trinh Y. Thu, Hardcover | Barnes & Noble® (barnesandnoble.com)

 

Từ tìm kiếm: duong ve thuy phu, trinh y thu

 

Hoặc liên lạc với tác giả / NXB qua hai địa chỉ email sau để mua sách có chữ ký của tác giả:

 

[email protected]

[email protected]

 

Tiểu sử TRỊNH Y THƯ

 

Trinh Y Thu

 Trịnh Y Thư (2024)


Trịnh Y Thư, tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội. Theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Lớn lên ở Sài Gòn. Năm 1970 sang Mỹ du học, sau khi tốt nghiệp, làm việc trong ngành điện tử viễn thông cho đến khi về hưu năm 2018. Viết văn, làm thơ, dịch. Nguyên Chủ bút tạp chí Văn Học (California). Đương chăm sóc cơ sở xuất bản Văn Học Press. Từ 2021, đảm nhiệm Chủ bút Việt Báo Daily News tại Orange County, California. Ngoài các sinh hoạt văn chương, Trịnh Y Thư còn là một cầm thủ ghi-ta cổ điển, và sáng tác nhạc gồm những tấu khúc cho piano, ghi-ta, và một ít ca khúc lời Việt.

email:                   [email protected]

Facebook:          Van Hoc Press

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
"Mỗi người đến thế giới này như một kẻ xa lạ, không phải vì họ xa lạ mà bởi vì họ được nhìn bởi người khác, trong đó có các nhà văn, như kẻ xa lạ. Bi kịch của con người là ở chỗ họ quá khác nhau, ở các học thuyết và các niềm tin, ở các quyết định và hành động, nhưng sâu thẳm họ giống nhau khi rắp tâm đi tìm sự thật cuối cùng. Không có công lý và sự thật phổ biến cho mọi trường hợp, và con người luôn luôn chọn đứng về một phía, và đó là bi kịch và hài kịch của họ. Những xung đột giữa người và người, giữa các quốc gia, các chủ nghĩa, đỉnh cao là chiến tranh, ở mức cá nhân là hận thù, những xung đột ấy chỉ có hy vọng hóa giải khi con người nhìn thấy sự thật phía sau câu chuyện lịch sử, những động cơ tâm hồn bên dưới sự thật. Sự hiểu biết ấy, và sự vui thú sinh ra từ hiểu biết ấy, làm nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết.
WESTMINSTER (PTH/VB) – Buổi ra mắt sách “Những Người Ở Lại” của tác giả LU Thuy hôm Chủ Nhật 27/4/2025 tại Westminster cũng là dịp để tác giả tâm sự về lý do vì sao viết sách này, cũng là dịp để nghe anh Võ Văn Thiệu, một sinh viên du học tại Ý từ trước năm 1975, kể về không khí thân cộng của các sinh viên từ Miền Nam VN du học tại Pháp
Cuộc chiến Việt Nam đã khép lại từ nửa thế kỷ trước nhưng những hệ lụy vẫn còn ghi khắc trong đời sống, tâm trí và ký ức của nhiều thế hệ người Việt ở quê hương lẫn hải ngoại. Ký ức đau thương lẫn khát vọng xây dựng tương lai đã trở thành chủ đề trung tâm trong nhiều tác phẩm văn học, tuyển tập truyện ngắn "The Colors of April" do Quan Manh Ha và Cab Tran biên tập là một ví dụ điển hình.
Khi về già, bạn mắc bệnh mất trí nhớ, rồi mất phương hướng, sau đó mất ngôn ngữ. Nếu bạn sống thật lâu, như một ngọn núi, các chuẩn tắc đạo lý do con người đặt ra sẽ mất sau cùng. Và theo thứ tự như vậy. Trước cửa một tiệm cà phê gần khu vực tưởng niệm sự kiện 911, gần nền của tòa tháp đôi đổ sập, xuôi về phía hiệu sách cũ Strand ở Broadway, nơi tôi mua được một tập thơ của Gerald Stern, tôi gặp anh Siu Kpa, người Gia rai sáu mươi tuổi, và vợ anh. Anak Gia rai, con của Gia rai. Hay Giơ rai, Jarai, Jrarai, Chơ rai đều được, cả hai nói tiếng Việt, nhưng anh nói giỏi hơn. Thật ra chị là người Ba na, nghe phát âm như Bơ na, hay Bờ na, hay Bà nà, cũng là Ba na dưới núi, Ba na trên núi, Bơ Nâm, Bơ Môn. Cả hai đều mất trí nhớ nhưng theo hướng ngược chiều nhau.
Nhà văn Phạm Quốc Bảo trong tuần qua vừa ấn hành tuyển tập Cuốn Lên Bức Mành. Một tác phẩm ghi lại những suy nghĩ của một người đang giữa lứa tuổi 80s từ hải ngoại về những gì còn lưu giữ sau một đời làm báo và viết truyện. Từng trang chữ của ông là cô đọng những cảm xúc của một người không tự cho mình sống một ngày nào mà không nghĩ tới quê nhà. Tuyển tập nhiều bài viết Cuốn Lên Bức Mành gồm ba phần: Hồi ức, Tản mạn, Thơ. Nơi đây, chúng ta gọi ấn phẩm này là cuốn sách sau 50 năm, vì Phần 2 còn được tác giả ghi là: Nửa Thế Kỷ Ngoái Lại. Thực tế, chiều dài của sách là hơn một thế kỷ rưỡi, vì có kể về ông ngoại tác giả là cụ Bùi Văn Giảng (1871-1934). Với chiều dài thời gian như thế, và với cảm xúc của thời điểm 50 năm, tác phẩm của Phạm Quốc Bảo có những trầm lắng rất là tịch mịch của lịch sử. Nơi đây chúng ta sẽ giới thiệu một số điểm trong tuyển tập.
Khi đọc được khoảng một phần ba quyển hồi ký “Việt Nam của con – Việt Nam của cha”, trong tôi thôi thúc mãnh liệt một suy nghĩ: đã đến lúc tôi cũng nên ngồi xuống để viết một quyển sách của chính mình trước khi quá trễ, hay nói đúng hơn là trước khi đầu óc tôi bắt đầu quên lãng nhiều cột mốc, nhiều câu chuyện, đặc biệt là nhiều cảm xúc đã từng có trong tôi, từng xảy ra trong đời tôi, kể từ lúc đặt chân đến đất nước này, nơi vừa gần gũi lại vừa lạ lẫm với tôi cho đến tận bây giờ.
“Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha” (nguyên bản ‘My Vietnam, Your Vietnam’) không chỉ là tự truyện của cha và con, kể lại hành trình đi tìm nguồn cội của tác giả, Christina Võ, mà còn là cách cô “hòa giải” – chữa lành vết thương giữa hai thế hệ – giữa cô và người cha, ông Nghĩa Võ, một bác sĩ quân y VNCH, cũng là đồng tác giả.
Không rõ do một cơ duyên nào mà ba người ấy – ba nhà thơ nữ, ba tâm hồn, ba định mệnh, ba trải nghiệm, ba cuộc đời, ba ngọn suối nguồn thơ ca lại rủ nhau về hợp lưu tụ hội trong một tuyển thơ đặc sắc, hiếm có...
Tác giả của cuốn sách này, Bác sĩ Ngô Thế Vinh, là một trong những nhân vật hàng đầu trong đời sống văn học ở Nam Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, và đã từng quen biết với tất cả những nhân vật mà ông phác thảo. Bác sĩ Vinh là bác sĩ chuyên ngành nội khoa tại một Trung Tâm Y Khoa Long Beach, Nam California. Ông cũng là một tác giả không biết mỏi mệt, với các tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, các sách bình luận văn hóa (như cuốn này) và các bài tường trình khảo sát. Đặc biệt, ông đã đích thân thực hiện chuyến đi điền dã theo suốt chiều dài 4.800 km của sông Mekong và đã viết hai cuốn sách nói về sự tồn vong của con sông này, một con sông lớn của thế giới và là mạch sống của hơn 70 triệu người sống dọc theo hai bờ con sông và nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Người Hát là tập thơ đầu tiên của Bùi Mai Hạnh. Một tập thơ đặc sắc. Một trong những chủ đề là những quan tâm xã hội được nhìn dưới khía cạnh trữ tình, sự bình đẳng, tự do, và các mối quan hệ giữa người và người. Thơ chị không trừu tượng, không có những ý tưởng tổng quát, mà chứa đầy sự kiện, các chi tiết. Có một truyền thống văn hóa và tinh thần ở đó, trong những bài thơ có tính hiện đại và đương đại của chị. Thơ Bùi Mai Hạnh trực tiếp mô tả, trong khi hàm chứa những yếu tố triết lý lặng lẽ. Mối quan hệ của chị với người khác, trong tình bạn, trong tình yêu, là những mối quan hệ sâu đậm, mạnh, khó khăn. Tất cả các đề tài đều có thể có mặt: sự chống trả quyết liệt đối với số phận, sự đề kháng xã hội, sự sợ hãi và hèn yếu, tất cả có mặt trong thơ Hạnh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.