Hôm nay,  

Thầy Giáo Lê Văn Hưu

13/03/202408:23:00(Xem: 841)

huu
Một thầy giáo tốt như một ngọn nến – ngọn nến cháy để soi đường
cho những người khác
- Mustafa Kernal.


Vào những năm (1226-1258) đời vua Trần Thái Tông, sau chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ nhất, nước ta vẫn luôn được đặt trong tình trạng chuẩn bị cho chiến tranh. Sống cạnh một đế quốc hùng mạnh, đã từng xâm lấn và san bằng một nửa thế giới đâu có dễ dàng. Có lẽ điều ấy đã thúc đẩy vua Trần Thái Tông giao trọng trách viết sử cho Lê Văn Hưu, gia sư của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải. Với cái văn hoá của người Việt Nam “người thầy là một người dẫn đường” Lê Văn Hưu đã hoàn tất bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư gồm 30 quyển vào mùa xuân tháng giêng năm 1272.
    Tiếc rằng bộ sách đã không còn tồn tại để ta có thể đọc lại tấm lòng của một người viết sử đã sống qua hai cuộc chiến gian khổ chống quân Nguyên Mông. Tuy nhiên, nội dung và tư tưởng của người thầy giáo ấy vẫn bàng bạc trong những bộ sử được soạn lại sau này từ các sử gia đời sau như Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ…
    Là con dân của một đất nước chiến tranh triền miên, ta tiếp xúc với lịch sử khi ta hoang mang. Sử giúp ta đứng vững khi soi bóng mình trên dòng sông Bạch Đằng. Biết bao nhiêu những nỗ lực, biết bao nhiêu những hy sinh; sử cho ta hoa trái, cho ta lý do để tồn tại, để tiếp nối. Không có gì đẹp bằng, nhìn sâu vào lịch sử ta thấy mình hiện diện ở đó. Ta thấy mình quỳ nơi bãi sậy lau, ta thấy mình đang đóng cọc ở dòng sông Bạch Đằng, ta thấy mình là sứ thần Giang Văn Minh hiên ngang đối đáp với vua nhà Hán rồi bình thản trở về trên cỗ quan tài khi đã hoàn tất sứ mệnh. Không có lịch sử, chúng ta không còn là ta, có thể chúng ta đang mang một họ khác: Chang hay Cheng, hay gì gì đó… Sử có mặt cho ta, ta có mặt cho sử. Và hôm nay  trên trang viết này, ta lại gặp ta, một Lê Văn Hưu tóc để chỏm, đi tung tăng trên con đường quê, yêu đất nước mình bằng tất cả trái tim.

*

Thuở ấy, ở đầu làng Thần Hậu thuộc tỉnh Thanh Hoá có một gian nhà tranh gọi là quán học. Các chức sắc trong làng đã cùng nhau dựng nên quán học để cho những người biết chữ nghĩa đến đây giảng thơ, bình văn. Đây cũng là nơi chốn để cho các con em trong làng đến học hành, dùi mài kinh sử.
    Ngày ấy, Lê văn Hưu tuổi tuy còn nhỏ nhưng cũng thường mon men ra đấy để xem lóm các anh trong làng học tập. Rồi một hôm, thầy đồ dạy học chợt nhận ra có điều kỳ lạ. Rất nhiều lần thầy nhìn thấy cậu bé hay chơi quẩn quanh nơi quán học lại thường hay nhắc bài cho các anh. Để thử tài, thầy bèn gọi cậu vào, viết mấy chữ Nho lên một tấm giấy rồi giảng giải cho cậu bé. Sau đó, thầy viết sang một tờ giấy khác, thì ngay lập tức cậu lặp lại không sai một chữ nào. Hỏi ra mới biết, cậu bé tên Lê văn Hưu đang sống cùng người mẹ trong làng, mồ côi cha khi còn trong bụng mẹ.
    Lê văn Hưu có một giai thoại vui với bác thợ lò rèn cho ta thấy sự nặng lòng về giáo dục, cái tâm sính chữ nghĩa của người đời xưa. Chuyện như sau: năm Lê văn Hưu lên 11 tuổi, trên đường đi học từ Kẻ Rị sang Phúc Triền, cậu thường đi ngang qua một lò rèn dựng ngay bên đường. Một hôm, trông thấy những chiếc dùi của bác thợ rèn treo trong quán, cậu thích lắm. Cậu cứ tần ngần, ngắm nghía, ước ao có một cái để đóng vở học. Thấy cậu học trò khuôn mặt sáng sủa, khôi ngô, bác thợ rèn bèn gạn hỏi:
    – Này, cậu bé muốn gì thế?
    – Thưa ông, cháu muốn có một chiếc dùi để đóng vở.
    Bác thợ rèn bèn ra một câu đối, bảo cậu, nếu đối được bác sẽ biếu không một cái dùi. Câu đối như sau: “Than trong lò, lửa trong lò, sắt trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi vở”. Ngẫm nghĩ một lát, Lê Văn Hưu đối lại: “Giấy trong túi, bút trong túi, mực trong túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên”.
    Thế là, không những cậu bé được tặng chiếc dùi vở đẹp nhất, cậu còn được bác thợ rèn tặng thêm những 3 quan tiền. Năm lên mười bảy tuổi, Lê Văn Hưu đỗ Bảng Nhãn. Ông được nhà vua giữ lại chốn cung đình để dạy dỗ hoàng tử thứ ba là Trần Quang Khải. Người sau này dược sắc phong chức Thượng tướng Thái sư, tài cao học rộng, lập nhiều công trạng trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông.
    Nếu William Butler Yeats, thi sĩ người Ireland cho rằng“dạy học không phải là làm đầy một thùng nước mà là thắp sáng một ngọn lửa thì Lê văn Hưu thực sự là người đã thổi bùng lên ngọn lửa ấy. Sống giữa hai cuộc chiến tranh, đất nước phải đối mặt với một đối thủ mạnh nhất thế giới, Lê văn Hưu đã dùng những dữ kiện thật từ những bài học lịch sử để khơi dậy lòng tự hào dân tộc: những chiến công của Ngô Quyền khi đánh tan hàng trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, hoặc chiến công của Lê Đại Hành trong những trận đánh Tống, bình Chiêm. Lê văn Hưu đã khẳng định được năng lực của quân dân Đại Việt và khơi dậy khí phách ở mỗi người dân triều Trần. Có lẽ, chính ngọn lửa từ người thầy giáo ấy đã giúp dân ta đánh bại được một đội quân bách chiến bách thắng không chỉ một mà đến cả ba lần.
    Tư tưởng của Lê Văn Hưu cho đến tận giờ vẫn còn nguyên vẹn giá trị. Bàn về điềm lành ông cho rằng Phàm người xưa gọi là điềm lành là nói việc dùng được người hiền và được mùa, ngoài ra không có cái gì gọi là điềm lành cả”. Hay: Của cải không phải là trời mưa xuống, sức không phải là trời làm thay, há không phải là vét máu mỡ của dân ư? vét máu mỡ của dân có thể gọi là làm việc phúc được chăng?” Nay, chính quyền nước ta thiếu hẳn những điều căn bản cốt lõi để trị nước. Người hiền không được dùng đã gây ra tình trạng tham ô nhũng nhiễu đến mức báo động. Ở các nước tân tiến, chuyện tham ô chỉ nằm trong mức độ kiểm soát, ở nước ta đã biến thành quốc nạn.
    Đọc về Lê văn Hưu sẽ thấy rõ, chúng ta sinh ra không để sống một mình mà để sống với nhau và vì nhau. Đặt tay trên trang sử, tôi tự hỏi chúng ta là ai, chúng ta là gì trong dòng chảy của đất nước mình? Chúng ta có sống với nhiệt huyết và tình yêu cho đất nước này như chúng ta đã từng không? Những trang sử ngày nào như những tờ lịch rơi trong gió, và chúng ta tựa như bao lớp học trò rồi cũng ra đi, khi bóng dáng người thầy vẫn còn đó nơi cửa lớp. Bụi thời gian đã xoá nhoà nước mắt, xoá nhoà những vinh quang cùng bóng dáng của người thầy năm nào.
    Lê văn Hưu làm quan tới chức Binh bộ Thượng thư, được sắc phong Hàn Lâm viện Thị độc, kiêm Chưởng sử, tước Nhân Uyên hầu, hiệu Tu Hi. Ông mất ngày 23 tháng 3 năm Nhâm Tuất 1322 và được táng ở cánh đồng xứ Mả Giòm, tỉnh Thanh Hoá. Có điều trước ngày mất, vị Binh bộ Thượng thư ấy đã cởi áo quan về làm thầy đồ nơi Kẻ Rị. Ba quan tiền tặng và chiếc dùi đóng vở của bác thợ rèn ngày nào đã nuôi lớn tâm hồn cậu bé Lê văn Hưu. Chúng ta sống với nhau và vì nhau. Để cậu bé ngày nào mon men nơi quán học, nay lại về làm thầy đồ nơi làng quê để dạy những đứa trẻ chân đất ba chỏm. Lịch sử không ghi rõ, nhưng ngoài Trạng nguyên Bạch Liên, tôi nghĩ còn có những văn nhân những tể tướng có lẽ đã đi ra từ cái chiếu học ấy, nơi thầy đồ Lê Văn Hưu đã trải qua những năm tháng cuối đời ở quê nhà.

 

Nguyệt Quỳnh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trên Việt Báo cách đây mấy tuần có đăng bài viết so sánh hai ca khúc Tóc Mai Sợi Vắn Sợi Dài (Phạm Duy) và Cô Hàng Xóm (Lê Minh Bằng), làm nhóm bạn mê nhạc bolero của tôi phấn chấn quá! Có người nói rằng còn nhiều trường hợp nữa để chứng minh rằng nhạc sến phổ biến hơn nhạc Phạm Duy. Một so sánh khác nữa về hai bài nhạc, một Phạm Duy- một bolero, còn thú vị hơn nữa, đó là Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà của Phạm Duy và Những Đồi Hoa Sim của Dzũng Chinh. Lời đề nghị này có lý! Bởi vì cả hai đều là ca khúc phổ từ cùng một bài thơ Màu Tím Hoa Sim của cố thi sĩ Hữu Loan. Và cả hai bài đều thuộc những ca khúc phổ biến vào bậc nhất của dòng nhạc bolero và nhạc Phạm Duy thời Miền Nam trước 1975.
Phát biểu của nhà thơ Trịnh Y Thư nhân dịp mừng thượng thọ, sinh nhật thứ 90 của Nhạc sĩ Lê Văn Khoa, hôm 10 tháng 6 năm 2023 tại Orange County.
Chiều Chủ Nhật 21/5 vừa qua chương trình nhạc “Tôi vẽ đời em: dòng nhạc Trần Hải Sâm” đã diễn ra trên sân khấu Elizabeth A. Hangs tại Santa Clara Convention Center với sự tham dự của gần 700 khán giả yêu thích văn nghệ vùng San Jose, trung tâm sinh hoạt văn hoá của người Việt ở miền bắc California...
Santa Ana, California – Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) sẽ tổ chức Hội Chợ Sách “Viet Book Fest,” vào thứ Bảy, ngày 3 tháng 6, năm 2023 tại khu vực Downtown Santa Ana, nhằm giới thiệu sách viết bằng tiếng Anh của các tác giả gốc Việt. Tất cả các sự kiện trong Viet Book Fest đều miễn phí và mở cửa cho công chúng.
Trong hai thập niên (1954-1975) về lãnh vực âm nhạc ở miền Nam Việt Nam rất nhiều ca khúc ca ngợi tinh thần chiến đấu anh dũng và sự ngưỡng mộ, biết ơn người lính VNCH...
Trần Anh Hùng, đạo diễn gốc Việt nổi tiếng với phim "Mùa Đu Đủ Xanh" hay "Xích-lô" vừa đoạt giải Đạo Diễn Xuất Sắc Cannes thuộc về với cuốn phim “The Pot au Feu” tại Cannes Film Festival. Lấy bối cảnh thế giới ẩm thực Pháp năm 1885, bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết năm 1924 của Marcel Rouffe “The Passionate Epicure” kể về một nhân vật hư cấu sôi nổi, Dodin Bouffant, người được truyền cảm hứng từ nhà ẩm thực nổi tiếng người Pháp Jean Anthelme Brillat-Savarin.
Sự trân quý đối với nghệ thuật đã giúp Lê Văn Khoa có cái nhìn tích cực, cầu toàn trong quá trình sáng tạo của ông, và xuất phát từ đấy những hoài bão ông ôm ấp từ thuở thiếu thời. Ông có nhiều hoài bão. Riêng bên lĩnh vực âm nhạc, nó là một giấc mơ, giấc mơ làm thế nào nhạc Việt có thể đi sâu vào dòng chính của âm nhạc thế giới, làm thế nào nhạc Việt vang vọng – và lấp lánh qua đó là bản sắc văn hóa Việt – từ các đại thính đường trang trọng khắp nơi...
Là một người có học nhạc, chơi đàn, từ thuở nhỏ tui đã thích nhạc Phạm Duy. Nhạc của ông “nhạc sĩ của thế kỷ” này thì đã có nhiều người phân tích tại sao hay, hay chỗ nào… Tui không dám hó hé giải thích tại sao mình thích. Chỉ thấy là khi mình đệm đàn cho người khác hát thì thấy phê. Vậy thôi! Rồi già thêm một chút, tự dưng tui bỗng thích thêm “nhạc sến.” Đặc biệt mỗi khi cảm thấy tủi thân vì thất tình, tui thấy nhạc bolero giống như tâm sự “đời tôi cô đơn” của chính tui. Thích quá, tui bèn thử suy nghĩ xem có điều gì chung giữa nhạc Phạm Duy và “nhạc sến” khiến tui phải mê cả hai.
Ba tôi có đưa ra lời giải thích khá hợp lý về nguồn gốc của chữ “sến,” mà cho tới giờ tôi chưa thấy lời giải thích nào tương tự như vậy trên Internet.
Tháng Năm được chọn là tháng Hoa Kỳ vinh danh người Mỹ gốc Á. Các cộng đồng gốc Á tổ chức nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật trong tháng này. Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) cũng có nhiều sự kiện giới thiệu về văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Chị Y Sa, Giám Đốc Điều Hành VAALA, có trò chuyện với Việt Báo về một số sự kiện nổi bật. VAALA là một tổ chức phi lợi nhuận, được thành lập vào năm 1991 bởi một nhóm các nhà báo, văn nghệ sĩ người Mỹ gốc Việt. Trong nhiều năm qua, VAALA hợp tác với nhiều cộng đồng khác nhau tổ chức nhiều sự kiện, nhằm giới thiệu nền văn hóa Việt, cũng như làm phong phú những sinh hoạt tinh thần của cộng đồng gốc Việt. Những sự kiện này bao gồm các hoạt động như Viet Film Festival, Cuộc Thi Vẽ Tết Trung Thu dành cho thiếu nhi, triển lãm nghệ thuật, giới thiệu sách, trình diễn nhạc kịch…
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.