Hôm nay,  

Mẹ về

27/06/202500:00:00(Xem: 974)

Minh-họa-Nguyễn-Việt-Hùng
Minh-họa-Nguyễn-Việt-Hùng
 
Cô Trang xinh đẹp, đẹp cả người, đẹp cả nết, ôn hòa nhã nhặn trong cách đối xử giao tiếp với mọi người.
 
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm. Hiếu hơn Trang 10 tuổi, nhưng Hiếu mảnh người, dáng nhanh gọn, nói năng hoạt bát. Trông họ rất xứng đôi vợ chồng. Họ làm đám cưới trang trọng và thân mật giữa sự vui mừng của hai họ nội ngoại. Sau nghi lễ, Trang vô ở trong căn nhà nội thất trang trọng mà tòa như dành riêng cho vợ chồng mới. Năm đó khoảng 1967-1968. Hơi uổng là dù có kiến thức mà Trang không ra ngoài xã hội làm việc. Có lẽ cũng theo yêu cầu chồng nàng chỉ lui cui ở nhà thu vén tề gia nội trợ. Khi còn độc thân, Trang là một tiểu thư khuê các, khi thành gia thất, nàng là một mẫu mực mệnh phụ phu nhân. Người chồng chiều chuộng và lo chu cấp đầy đủ cho cuộc sống, cho mọi nhu cầu. Trong cơ ngơi, cô còn có kẻ ăn người lằm và tài xế riêng khi cần đưa đón. Họ sống rất thuận thảo hạnh phúc, sung mãn. Trang cởi mở và thân mật với tất cả mọi người kể cả những người giúp việc.
 
Sau 5 năm, Trang và Hiếu có được 2 con trai xinh đẹp khôi ngô là Thảo và Thuận. Hai đứa con như làm tăng thêm hạnh phúc gia đình…
 
Nếu cứ thế mãi thì không sao, nhưng cuộc đời chợt đổi thay. Ngày 30-04-1975 định mệnh đen tối ấp đến với cả đất nước, không ngoại trừ một ai.
 
Gia đình Hiếu và Trang bị cuốn theo chiều gió, ngơ ngác. Từ đầu tháng 03-75 gia đình nội và ngoại đã di tản vào Nam. Nhưng Hiếu, Trang và hai con vẫn ở lại miền Trung.
 
Hiếu nắm trách nhiệm công việc, không thể bỏ rơi đồng nghiệp và nhiệm sở. Trang thì không thể và không muốn rời xa chồng, cái cột dựa vững chắc của cô. Trang và hai con trai lẩn quẩn bên cạnh chồng ngay cả khi anh làm việc trong lúng túng. Họ sinh hoạt thu gọn hơn, nhưng vẫn trong khuôn viên tòa án.
 
Nhưng rồi ba ngày sau, ba mẹ con cô không thể đi theo Hiếu vào trại giam vì lúc cộng sản chiếm thành phố, Hiếu bị bắt đi ngay lúc họ ập vô tòa án, Hiếu đi ra vội vã đến nỗi đi tay không và không nói lời tạm biệt gia đình, là lệnh mà!
 
Ngay chiều cùng ngày, Trang được lệnh phải dắt hai con ra khỏi nơi cu ngụ… Trang sợ thất thần, nhưng rồi nàng chợt hiểu… nhờ chợt nhớ lại, trong mớ kiến thức hổn độn thời kỳ còn đi học… chẳng còn gì ngoài mấy câu thơ sắc nét của nhà thơ Trần Dần :
“Tôi bước đi
Không thấy phố thấy nhà
chỉ thấy mưa sa
trên mầu cờ đỏ!“
 
Trang mang hai con ra cổng nhà, đi về phía nhà cha mẹ ruột dưới trời mưa xám, hơi nặng hạt, rất may cho mẹ con cô là cả nhà đã di tản, nhưng còn chị Tám giúp việc còn lại đó, chị thu dọn gian bếp, ngủ, đặng coi chừng, coi chừng gì không biết nữa, à, coi chừng xem mặt cộng sản ra làm sao, chưa thấy cộng sản tới tịch thu nhà. Chỉ thấy Trang dắt con tới gọi, chị cười như mếu: ô, cô hả, may quá, có cô và hai em tới ở cùng, cháu sợ một mình lắm, cô và hai em cứ vô bếp này, thôi mình chỉ ăn ngủ nội trong đây thôi.
 
Rồi cô cháu mẹ con tá túc quấn quýt bên nhau ít ngày. Chị Tám bơ vơ một mình, biết chạy về đâu, chị viện lẽ chị sinh trưởng ở đây thì đất nơi này là của chị… không ai có quyền chiếm đoạt tài sản hay đất đai. Trang thông minh hơn, nói như an ủi, hãy đợi coi vì họ vô thì ở đâu chẳng có họ, có mà chạy lên trời không lại.
 
Cũng có người quen rủ, tình thế nhốn nháo, chưa biết ai kiểm soát ai, cứ thúc đại ghe thuyền đi đại vô Saïgon, trong đó có người có ta, rồi tính sau. Nhưng Trang quyết ở lại để đi tìm tin tức của Hiếu. Cô trấn an hai con mà như để trấn an mình, “đừng sợ hãi, rồi ba các con về, ba sẽ lo mọi sự“ “mình phải đợi ba về, mình không thể bỏ rơi ba“. Ngay lúc đó Trang cứ đoán như kỳ loạn cộng sản tất Mậu Thân ở Huế… rồi ít ngày ít tháng sẽ xong. Nhưng cô đâu có ngờ chồng cô đã bị điệu ngay ra Bắc, ông chánh án ngụy, nguy hiểm đi xa biền biệt.
Chờ đợi chán, cuối cùng Trang cùng hai con rong ruổi ngày đi đêm đi rong tuổi chạy bộ dần dần về Saïgon tìm gia đình, tìm cha mẹ. Tìm mãi không thấy cha mẹ, nhưng còn may cô tìm được người chị có nhà ở trong Nam, cho mẹ con cô tá túc.
 
Từ đó phải lo sống, Trang thu gom vốn liếng còn sót lại, cô theo người chị đi buôn bán chui với giấy tùy thân cũng chui (làm giả). Khi thì mua hàng ngoài chợ trời Trương Minh Giảng, khi thì đeo xe khách ra miền Trung buôn café Ban Mê Thuộc. Cô vẫn cố gắng đi đi về về chốn cũ, hy vọng tìm ra tông tích Hiếu.
 
Trang khá thông minh tháo vát và can đảm đối phó hoàn cảnh khó khăn. Dù trong lòng, có lúc tuyệt vọng, nhưng cô vẫn khuyên các con: “dù gì, mình cũng phải đợi ba về, ba về, ba sẽ lo được mọi việc. Tin mẹ đi, ba các con vẫn còn sống và bị giam giữ ở đâu đó!“
 
Trang và hai con cũng sống tạm ổn nhờ có chi viện của cha mẹ cô từ Pháp gởi về sau ba năm, họ liên lạc được với nhau. Các anh chị cũng có làm giấy tờ bảo lãnh xuất ngoại, nhưng Trang khoan tính chuyện ra đi, cô chờ chồng, chờ tin chồng, cô cứ tin là Hiếu còn sống đâu đó dù đã ba năm bặt vô âm tín.
 
… Rồi trời phật cũng không phụ lòng tin, cuối năm 1979, cô được một người lạ tìm đến tận nơi ở, không hiểu sao mà người đưa tin tìm ra cô, cho cô hay chồng cô đang ở trại giam Vĩnh Phú, phía bắc Hà Nội 50km Hiếu ghi cho Trang giòng chữ nhỏ vắn tắt trên một mảnh giấy nhàu nát và đúng ra là nét chữ của chồng cô: “cứ an lòng, anh sẽ về!“
 
Trang lần theo địa chỉ ghi, cô nhờ cậy một người bà con làm chức vụ ở Bắc vô Nam chơi, vừa khéo léo biếu quà vừa mua chuộc, cô xin được giấy phép ra Bắc thăm chồng.
 
Trang cứ nhớ mãi không thể quên, là lần đi thăm nuôi duy nhất và xa xôi đó, nàng không dám mang gì nhiều, sợ lộ việc, sợ sức mình mang vác nặng không kham nổi, cô chỉ thu gói gọn trong hai giỏ sách tay, một đựng vài bộ áo quần đơn giản cho mình và hai bộ áo quần cho chồng, sợ Hiếu đã rất rách rưới, còn một giỏ kia là đồ ăn, thịt chà bông, kẹo ngọt và một số thuốc tây căn bản phòng thân.
 
Còn lại thứ phụ thuộc linh tinh như cơm, gạo, bánh, mì khô cô chuẩn bị ra Hà Nội sẽ mua sau dù phải mua đắt. Nhưng ngược lại, cô bọc kỹ trong mình một số tiền khá lớn, giấy giá trị lớn và gọn, nhẹ chuẩn bị khi sa cơ nhỡ cho chồng nhiều và cho cả mình phần nào. Tất cả đều do mẹ cô giúp đỡ.
 
Rồi họ gặp nhau, một đôi vợ chồng còn khá trẻ, đầy can đảm nghị lực và nhuệ khí. Gặp nhau, sau xúc động là họ bình tĩnh âm thầm bàn tính, nói ít hiểu nhiều, Hiếu đồng ý cho Trang mang con ra ngoại quốc. Họ có mủi lòng, nhưng không khóc lóc và hẹn ngày tái ngộ.
 
Tới lúc bịn rịn chia tay, Trang tỏ ra cứng cỏi và quyết đoán, nàng cứ nhớ mãi là đã bọc tiền chặt, gọn và rất kín đáo và cuốn trong cái quai giỏ sách quần áo cho Hiếu, nàng dặn dò Hiếu lo giữ lấy phòng thân khi cần. Tiền để sống.
 
Nhưng Hiếu dùng dằng, rồi bảo đưa lại tiền cho Trang, viện cớ ở tù không cần mua gì và Trang có hai con thì cần hơn. Đẩy qua đẩy lại, nói ngọt ngào chồng không nghe lời, Trang đổi ý sẳn giọng:
 
Thôi con lạy ông, ông cầm lấy dùm con đi, cứ dằn co thế này, kìa, nó mà đoán, thấy được, nó bắt được thì chết… chết cả ông mà chết cả con!
 
Hiếu tức cười, cất tiền vô bao thuốc lá, không quên khen vợ: mấy lúc này, em tiến bộ coi được, biết đi van lạy và dọa nạt có bài bản…
 
*
*        *
 
Sau lần thăm nuôi ấy, Trang dặn dò chồng mọi chuyện, nàng về Nam, thu xếp với số tiền còn lại trong mình, nàng lo thủ tục giấy tờ đã được cho mẹ bảo lãnh từ lâu đưa được hai con trai sang Pháp. Đầu năm 1981, ăn tết Nguyên Đán xong, mẹ con nàng ra đi, rời quê hương Việt Nam yêu dấu, mẹ con nàng đã sang định cư ở một vùng ngoại ô Paris, Choisy Le Roi.
 
Sau một hai tháng đầu nơi đất khách, Trang thảng thốt khóc vùi nhớ nhà, nhớ quê hương Việt Nam, nhớ thành phố biển êm dịu miền Trung, nhớ Saïgon tất bật mà vui rộn ràng. Rồi thì cũng phải đứng dậy lau nước mắt làm chủ gia đình, lo đi học ngoại ngữ, lo đi học một nghề mà làm việc mà nuôi con.
 
Nhờ có vốn liếng sinh ngữ thời trẻ còn sót lại, nàng mau chóng xin học một formation ngắn hạn. Năm 1982, Trang bắt đầu làm caisse, rồi lên làm chef de rayons cho siêu thị Monoprix gần nhà. Hai con trai, Thuận và Thảo được đi học lại, chúng nghe mẹ khuyên bảo, học hành chăm chỉ tấn tới và như chúng cao lớn hẳn lên, cao hơn cả mẹ chúng…
 
Điều hơi đáng tiếc là Hiếu bị cộng sản giam cầm khá khá lâu, 12 năm sau, được vợ con bảo lãnh qua Paris, khi đó Hiếu đã 56 tuổi, tuy còn sung mãn nhưng vì bị tù đầy quá lâu, Hiếu không còn được lanh lẹ và hồn nhiên vui tính như ngày nào.
 
Dù gì họ vẫn là một gia đình được may mắn hơn chán vạn nạn nhân đồng hương của họ đã bạ tan nát đâu đó hay bị vùi sâu dưới đáy đại dương.
 
Trang lo chăm sóc sức khỏe cho chồng. Các con thành công trung học và bước vào học đại học.
 
Nhưng có lúc Hiếu vẫn buồn vơ vẩn, buồn cái buồn chung cả dân tộc, buồn cái buồn nhớ quê hương, và những cái buồn riêng bất lực và khó nói.
 
Hiếu đi loanh quanh trong hiên nhà, luẩn quẩn trong suy nghĩ sao tụi mình lại thua cộng sản? Không biết mình sống ở nơi này là đúng hay sai? Thỉnh thoảng nghe Hiếu thở dài, Trang nói như giỡn: “… em bắt chước giọng điệu cộng sản nếu như anh vẫn là tiểu tư sản!
 
Rồi ít lâu sau, Hiếu cũng phải đứng dậy đi làm việc, cho bớt suy nghĩ và phụ Trang nuôi con. May mắn nhờ người bạn thân đưa đẩy, anh được vào làm việc, trực một phòng thí nghiệm hóa sinh cho một trường trung học.
 
Hiếu bớt suy nghĩ, bớt buồn từ khi có việc làm, cũng trong công việc làm, Hiếu gặp lại vài ba người bạn đồng hương và họ cũng có lần rủ hai vợ chồng Hiếu đi hát karaoké. Họ vui vẻ cùng đi. Cùng ca hát.
 
Hiếu đàn giỏi hát hay và Trang như là Trang còn hát karaoké hay hơn nhiều người và hay hơn cả chồng, nhìn Trang và Hiếu song ca bên nhau bài Quỳnh Hương, người ta tưởng đó là đôi bạn tình đắm đuối nhứt một thời:                   Em trao cho anh một đóa quỳnh…
          Quỳnh thơm hay môi em thơm…
Em trao cho ta một đóa quỳnh…
Ngọt ngào thấm đẫm đam mê…
 
Họ hát karaoke và ăn cơm chung ở nhà Đỗ Quyên. Nhà Đỗ Quyên rộng, mát, đẹp, thuận tiện để tổ chức ăn và hát karaoke. Đỗ Quyên thích tổ chức văn nghệ như là họp mặt thi văn tao đàn, làm chỗ gặp gỡ hàn huyên, ngâm vịnh thi ca hát nhạc Việt Nam vào mỗi cuối tuần, đó là dịp tạm giải sầu cho cái sầu ly hương, buồn viễn xứ. Đó là dịp tạm giải sầu cho cái sầu ly hương, buồn viễn xứ. Đó là nơi bạn có thể tìm lại được bạn cũ hay có bạn mới. Đỗ Quyên yêu thích văn nghệ và không vụ lợi, chỉ cần đóng góp 20 euros, bạn ăn uống nói chuyện thỏa lòng vô tư… bạn bè vẫn ca ngợi:
 
Đỗ Quyên là con chim nho nhỏ
Có cái cổ đỏ rất xinh xinh
Và cũng hót với giọng du dương rất tình…
 
Nhưng ăn và uống thì thỏa thuê, bao nhiêu cũng được, nhưng màn hát karaoké thì có giới hạn, khi mục ca hát hào hứng, ai cũng thích tới phiên mình hát trước bạn, có lúc ca sĩ say mê micro hơn cả ăn uống hay hàn huyên, tâm sự cùng nhau… hát là trên hết.
 
Hiếu gặp bạn tù cũ, Tùng, ngồi cạnh, Tùng và Hiếu tỉ tê tâm sự vui buồn, Tùng kể cho Hiếu nghe chuyện vượt biên của gia đình anh, bi thảm, vì vợ con anh bị chìm xuồng hết thẫy giữa biển khơi. Họ lắng sâu vào chuyện kể, vào dĩ vãng… cho đến một lúc, Hiếu giựt mình ngửng lên thấy Trang, vợ anh, đang song ca rất tình tứ với các nam danh ca khác, những bản nhạc du dương: “tôi vẫn nhớ - đám cưới đầu xuân - lúa mùa duyên thắm…“ anh bạn song ca với Trang, rất vô tư, ôm vai Trang thắm thiết… và rống to như một con bò, giọng lanh lảnh để lọi kéo sự reo hò chú ý của khán giả:
 
… Gạo trắng trong mà nên duyên hẹn thề
… Gạo trắng trong mà nên duyên mặn mà.
 
Trang thì tươi cười hớn hở trước sự vỗ tay nồng nhiệt của mọi người. Hiếu hơi ngạc nhiên, Tùng như hiểu ý ánh mắt khó chịu của Hiếu, vội an ủi:
 
Ôi, ca với hát, hơi nhảm nhí rồi đó.
 
Từ đó Hiếu không muốn đi hát karaoké nữa, anh nói ở nhà đọc sách lợi hơn.
 
Trang thì cứ thích karaoké, em thích hát! Thích ca! Thích ca thì em đi một mình, anh không đi.
 
Hai vợ chồng cứ như vô cớ bất hòa từ tí ti, nhỏ rồi tới lớn dần.
 
Một hôm Trang sửa soạn đi karaoké vì Đỗ Quyên đang lập đi lập lại từ đầu giây bên kia, giọng vang vang:
 
Nhớ đến nghe Trang, Trang mà không đến là thiếu lắm đó Trang à… mọi người đang đợi!
 
Trang đang săm soi sửa soạn để đi hát, Hiếu dòm vợ lăng xăng và tỉ mỉ trang điểm trước gương… cùng lúc, đầu giây điện thoại kia vẫn vang lên giọng Đỗ Quyên gọi Trang dồn dập. Rồi chẳng biết, để mắng vợ hay mắng cô nàng Đỗ Quyên, cũng chẳng biết từ đâu, hay từ vô thức, Hiếu bật ra từ cửa miệng:
 
“Đồ đĩ!“
 
Đó là nguyên nhân làm đổ vỡ hạnh phúc vợ chồng. Từ buổi đó, khoảng cách Trang và Hiếu xa dần xa dần.
 
Mới đầu giận, hằn học, xong không nói chuyện với nhau nữa. Hai đứa con khổ sở không hiểu tại sao, chúng len lén đi học về học, ăn cơm, rửa chén, làm bài vở và đi ngủ. Lặng lẽ.
 
Hiếu bỏ nhà đến ở với Tùng một tuần lễ, Tùng lấy lời hơn thiệt khuyên Hiếu về lại nhà, viện lẽ Hiếu còn có một gia đình để yêu thương… còn Tùng, có ai đâu, độc đinh cô quả! Hiếu nghe lời Tùng trở về gia đình,  nhưng rồi lại giận hờn, Hiếu nói nhà này chỉ có thể một trong hai đứa ở thôi, hoặc tôi hoặc em!
 
Trang đồng ý ra đi, nàng về sống với cha mẹ, đợi chồng nguôi ngoai cơn giận, nàng nghĩ có lẽ gông cùm cộng sản đã làm tình cảm Hiếu có phần han rỉ, hao hụt. Mà có phần đúng vì Hiếu như càng ngày càng bực tức vô cớ và đi vào trầm cảm, anh thầm nguyển rủa cộng sản, nguyền rủa ông Nguyễn Văn Thiệu, nguyển rủa Đỗ Quyên và Trang là hai đứa con gái ham vui một cách vô ý thức, đã mất quê hương mà vui hát cái nỗi gì?
 
Nhưng anh rất mềm dịu với hai con trai, anh thương chúng đầu thai lầm thế kỷ, anh tỏ ra săn sóc các con hơn lúc Trang còn ở nhà.
 
Trang rất giận chồng đã quá nặng lời nàng không thể nào làm hòa với một con người thô lỗ quá thế. Nhưng vì lòng thương con, vì tình mẫu tử xót xa Trang vẫn năng nổ nấu gói đồ ăn thịt kho trứng, cá thu sauce tomate, canh chua, giò heo hầm, tôm hùm chua ngọt… Trang làm mỗi tuần một giỏ đồ ăn đầy ắp, nặng trĩu… lén lén đợi lúc Hiếu không có mặt ở đó, nàng mang về nhà xếp gọn gàng đầy tủ lạnh. Lau quét trước sau sạch sẽ, rồi lặng lẽ khóa cửa ra đi.
 
Trang tránh gặp mặt Hiếu trong khoảng thời gian dài đăng đãng gần 3 năm trời. Thời gian cứ vùn vụt trôi đi trôi đi, chẳng ai xin lỗi ai. Chẳng ai nhận lỗ họ cố chấp thiệt… hai đứa con đã học xong, đã bắt đầu đi làm việc… Thảo tìm đến nhà thăm ông bà và đưa tiền lương kiếm được biếu mẹ, mẹ con ôm nhau khóc thầm sau vườn cây, thuận thì thầm khuya vắng nào cũng nhắn tin cho mẹ trên ipad…
 
Rồi người ta đồn này đồn kia, đồn Trang đã có kép mới. Người ta cũng xì xầm Hiếu chán đời, bỏ việc làm, đã gá nghĩa với bà chủ quán ăn sang trọng nào đó ở miến cực nam nước Pháp.
 
Hai đứa con trai họ trưởng thành trong cái hạnh phúc khô cứng của bố mẹ chúng. Chúng hay nhìn nhau như cùng chia xẻ nỗi buồn gia đình tẻ nhạt. Chúng vẫn sống chung cùng ba  chúng… anh em Thuận Thảo ngầm chia sẻ nỗi buồn đồng cảnh ngộ, không đứa nào dám có, hay dám yêu một cô gái, một bạn gái… chúng như cùng an ủi nhau đợi một ngày đẹp trời nào đó, mẹ Trang sẽ mang hai giỏ đồ ăn về và ở lại, ở lại nhà, không khép cửa để ra đi nữa!
 
Hiếu qua tuổi 60 lúc nào không hay, Hiếu vẫn đi đứng mạnh khỏe bình thường, có điều trầm cảm nặng hơn và như mất dần trí nhớ, vưa mất trí nhớ vừa thêm hoang tưởng… anh phải vô bệnh viện hôpital Esquirol St Maurice đều trị tâm thần. Người ta cho anh uống tamesta rồi nặng hơn la prozac anh mới có thể ngủ lại được.
 
Khi bớt bệnh, hai con trai lại đưa bố chúng về nhà, một ngày đó vào một dịp lễ, các con đi xa, Hiếu ở nhà một mình, vắng lặng, rồi Hiếu muốn mở tủ lạnh kiếm một chút gì ăn, anh không hẳn đói, nhưng anh nhớ, nhớ những món ăn Trang hay làm… khéo léo và tỉ mỉ nhưng anh hơi bất ngờ đến ngạc nhiên vì các ngăn tủ lạnh trống trơn. Anh lật đật bấm điện thoại cho các con.
 
Ủa, thế mẹ không còn làm đồ ăn cho tụi con nữa à?
 
Dạ, là mẹ đau bệnh đã 2, 3 tháng nay rồi, mẹ con bị mệt tim dữ lắm, có lẽ phải đặt máy trợ tim….
 
Hiếu im lặng buông máy rồi từ từ, rất lừ đừ vô giường nằm, anh lại ngủ vùi vì uống prozac. Lúc ở trong bệnh viện, anh có lần loáng thoáng nghe lọt khi các bác sĩ chẩn định thuốc cho anh, có người đã nói rằng… uống nhiều prozac, patient này có khi sẽ đi tới tendance à sucider… Hiếu vẫn ngủ và mơ màng như thấy Trang đang bị mổ ngực để đặt máy trợ tim… nhìn Trang đang nằm mê man thoi thóp trên bàn mổ, da thịt vợ anh tím, tái… Hiếu giựt mình choàng thỉnh và nhủ thầm với lòng: mình phải xin lỗi Trang, xin lỗi mẹ chúng nó, trước khi quá muộn màng, vì biết đâu lỡ em không hồi tỉnh, vì biết đâu lỡ anh điên rồ mà sucider… trước khi em còn kịp mang đồ ăn về nhà… anh xin lỗi Trang, ngàn lần xin lỗi vì anh quá nặng lời…
 
Tự nhiên anh thấy mình tỉnh táo lạ thường, anh nhớ trong lần thăm nuôi, Trang đã cho anh rất nhiều tiền, nhờ số tiền đó anh gởi mua thêm thuốc sốt rét ở ngoài mang vào trại tù  uống chữa những cơn bệnh nặng, nhờ số tiền đó, có lần anh đã giúp bạn ra tù, rồi cùng anh, ăn đường ngủ trọ và nhứt là mua vé xe đò về Nam… anh đã sống được nhờ số tiền đó!
 
Quả là anh không đúng trong vài năm gần đây, anh đối xử với vợ không đẹp, chỉ khi nào cần nhờ vả điều chi anh mới nói nhẹ nhàng vui vẻ, ngoài ra, nhứt nhứt nói với nàng, anh như khô khan, có chút cộc cằn và ra lệnh! Người ở tù lâu… cạn kiệt tình cảm rồi sao?
 
… Cánh cửa sổ phòng cài không kỹ, chợt gió lùa làm mở toang, ánh sáng tràn vô sáng lòa, tiếng động lạch cạch, cửa đập vô tường, làm Hiếu tỉnh hơn, anh ra khỏi bàng hoàng và trán đẫm mồ hôi!
 
Anh choàng dậy, dứt khoác đi pha cho mình một ly café  sữa… ngon, anh sẽ cố làm sao ngon, đậm đà và thơm như Trang vẫn pha cho anh khi xưa.
 
Phòng ngoài, hai đứa con đã về tới, chúng rù rì nói chuyện rồi có đứa huýt sáo… choto mate kudasai, nhạc chủ đề của bộ phim orféo négro, nhạc ngoại quốc lời việt, tạm dịch “yêu đến muôn đời!“ Uống vơi ly café sữa đặc anh tỉnh táo hơn nhiều, anh nhớ là có lần các con đã nói bên tai, “nếu bố không còn bệnh vơ vẩn hoang tưởng nữa, thì mẹ sẽ về. “ À bây giờ như là bố hết bệnh, hết điên khùng, bố khỏi thiệt rồi chúng mày à… ngủ tốt là bố khỏi bệnh.
 
Một buổi chiều cuối xuân, vào hạ, có nắng hanh vàng rưng rưng ngoài cửa sổ… một buổi chiều êm như một giấc mộng. Hiếu ngồi hút điếu thuốc lá nhẹ bồng bềnh, khói uốn éo lên cao. Hai đứa con lẩn quản với bếp, có tiếng nồi soong va chạm khua nhẹ  vào nhau.
 
… Két, két, két, cánh cửa khô dầu, rung nhẹ rồi im. À, thì ra Trang vừa đẩy cửa vô nhà. Lần này cô sách hait ay hai giỏ khá đầy, giỏ ví đeo vắt trên vai.
 
Thảo mừng rỡ ngó thấy, reo vui:
 
Thuận chạy vội về phía trước, tay đỡ mấy giỏ sách:
 
Ô, mẹ về, mẹ về thiệt rồi, bố ơi mẹ về!
 
Hiếu vịn thành ghế, ngỡ ngàng một giây, rồi như phản xạ, anh lập lại lời con: mẹ về, mẹ về thiệt rồi…
 
Chúc Thanh, mùa Vu Lan 2025

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.