Hôm nay,  

Tướng Cướp Núi Mây Tào

20/06/202500:00:00(Xem: 1615)
Poster 1
 
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây.
 
Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ.
 
Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
 
Ở K2 trại tù Hàm Tân này, trong những lần thăm nuôi trước, tôi đã có dịp gặp lại một số bạn nhà văn gốc quân đội, từ các trại tập trung miền Bắc chuyển vào. Văn Quang, giám đốc Đài phát thanh Quân Đội trước 1975, tác giả tiểu thuyết được quay thành phim Chân Trời Tím nổi tiếng. Hoàng Ngọc Liên, nhà thơ quân đội. Thân hơn với chúng tôi là anh bạn Thảo Trường, cùng viết văn từ thời tạp chí Sáng Tạo những năm năm mươi.
 
Sau cả chục năm lưu đầy, gặp lại bạn cũ trong tù, ngay lần thăm nuôi đầu ở K2, Từ khoe:
 
“Có Thảo Trường ở đây. Gửi lời thăm em. Hai anh em ở cạnh nhau. Được lắm.”
“Anh ta thế nào? Có ai thăm nuôi không?”
 
“Khỏe. Hắn bị bắt ngay tháng Tư 1975. Vợ con bên Mỹ cả. Có mấy cô cháu lo thăm nuôi. Không đến nỗi nào.”
 
Bị bắt ngay tháng Tư 1975. Sao trong cuốn tiểu thuyết công an “Vụ Án Hồ Con Rùa”,  sau đó cả năm, Trần Duy Hinh còn được phong chức tư lệnh kháng chiến quân trên rừng núi Tùng Nghĩa? Tôi tự hỏi rồi tự cười mình: Ngố. Có vậy mà cũng ngạc nhiên được. Tiểu thuyết công an mà.
 
Trần Duy Hinh là tên thật của Thảo Trường. Anh là sỹ quan trong quân đội VNCH. Sau hiệp định Paris, có lúc là thành viên của Ủy ban Quân Sự Hai Bên, lo việc trao đổi tù binh, trước 1975, từng có dịp ra Hà Nội thăm nhà tù Hỏa Lò.
 
Còn nhớ lần thăm nuôi ấy, khi ra về, cũng ngay khúc đường rừng này thôi, đang đi, bỗng có tiếng quát:
 
“Chị kia. Đứng lại.”
 
Giật mình. Đúng kiểu vệ binh cộng sản.
 
Từ sau khóm cây bên đường, có người nhô ra: tóc tai, râu ria, nón rộng vành, rựa dài đeo trên vai. Một người rừng chăng?
 
“Muốn qua thì phải nạp tiền mãi lộ. Ta là tướng cướp chân núi Mây Tào đây!”
Rồi:
 
“Nhã Ca phải không? Sợ chưa?”
 
Một nụ cười quen thuộc hiện ra. Chính là Thảo Trường. Phì cười:
 
“Làm giống gì mà ra đây được? Tù tự giác à?”
 
“Hà hà...  Ta đây, núi Mây Tào giang san một cõi. Giống tướng cướp chưa? Sợ hả?”
 
Chỉ là một anh khổ sai xách rựa đi rừng đốn tre. Biết tin có bạn tới, lén ra đón đường chờ gặp. Tù rạc cả chục năm mà đòi giống tướng cướp nỗi gì. Coi chừng. Bọn cán bộ mà thấy, cùm là cái chắc.
 
“Khỏe không?”
 
“Khỏe re. Gặp Từ rồi chứ? Các bạn bên ngoài ra sao? Có hy vọng gì không?”
 
“Hy vọng chứ.”
Cả lô câu hỏi. Đáp ngay là hy vọng, kỳ thực chẳng biết là hy vọng chỗ nào. Chỉ cùng đi một đoạn đường ngắn. Chẳng nói thêm được gì. Có tiếng xôn xao phía trước. Vậy là “tướng cướp núi Mây Tào” phải biến vào rừng lại.
 
Mới đó, đã hơn một năm rồi. Biết bao nhiêu chuyện.
 
Lê được mấy túi đồ thăm nuôi qua đoạn đường mòn, mắt đã nổ đom đóm vì mệt.  Nhà thăm gặp K2 lợp lá, trống trải, nền đất, có mấy dãy bàn và băng ghế dài. Lại chờ. Thêm một lần thủ tục nữa. Qua buổi trưa. Kẻng lao động. Từng đoàn tù rách rưới xuất trại. Kìa, toán tù được gặp thân nhân, ăn mặc lành lặn hơn, sắp hàng một, ra sau cùng.
 
Phải thủ tục đầu tiên đã. Đem số thư từ con cái viết gửi lên cho bố, đặt lên bàn cán bộ. Thôi thì cũng phải như mọi người để được yên ổn trong mười lăm phút gặp gỡ, chuyện trò mà không bị làm khó dễ: dưới mớ thư từ, tờ báo Giải Phóng ôm gói thuốc lá ba con số năm.
 
Đoàn tù đã vào tới. Ngồi xuống. Nhìn. Cười. Coi kìa, bàn tay đặt lên bàn. Những vết chai cứng trên bàn tay khổ sai.
 
“Bình tĩnh. Cho anh biết tin con ra sao.”
 
“Yên rồi. Con đã gửi thư về.”
 
Một hơi thở ra. Hơi thở đã bị nén lại, bị nuốt xuống.
 
Mười năm thăm nuôi, cảnh này đã tái diễn mấy lần. Đánh tư sản, mẹ con tan tác, biệt tích một năm. Lũ nhỏ vượt biên lần thứ bảy bất thành, Sớm Mai đi khổ sai ở Đồng Phú 18 tháng. Mới đây thằng con trai vượt biên lần thứ mười. Đường bộ. Sáu tháng kẹt cứng trên đất Miên. Gần nửa năm, chỉ có mấy đứa con thay nhau thăm nuôi bố. Tôi biết mình không thể ngồi thẳng được trước mặt anh ấy, cũng chẳng thể trả lời được thành tiếng. Đành phải lánh mặt. Hơi thở bị nén xuống suốt bao nhiêu năm tháng, mãi bây giờ mới bật ra được, như một cơn gió mát.
 
“Thư con ra sao?”
“Thư gửi từ Thụy Điển.”
“Tội nghiệp em.”
 
Lại nhìn nhau. Anh ấy hiểu mà. Tôi đã làm gì suốt mấy tháng qua? Ngày đi từ nhà ở ra chợ, rồi từ chợ trở ngược về nhà, đi không để làm gì hết. Đêm, cùng quẫn một mình với những điếu thuốc cháy đỏ. Thằng con đi đường bộ, sang Cam-pu-chia, luồn lách tìm đường sang biên giới Thái. Con đường biên giới gài kín mìn chông, chưa kể những trận đụng độ giữa bộ đội Việt cộng với lính Miên, lính Thái. Nhận thư con, chỉ còn sức bò lê dưới nền nhà.
 
“Con nó thoát qua biên giới bằng cách lẫn vào một đàn trâu... Nó bị rơi vào kháng chiến quân Cam-pu-chia. Bị bắt giữ. Một sĩ quan Thái đã cứu nó, đưa vào trại tỵ nạn. Người bạn của chúng ta đã kịp thời báo cho sứ quán Thụy Điển ở Thái Lan. Chỉ trong vòng chưa đầy hai tháng, con được đưa thẳng sang Thụy Điển. Nó đã gặp ông Thomas và Marianne của Pen. Có thư của con và thiệp của ông Thomas gửi bố.”
 
Trên bàn cán bộ, gói thuốc đã khui, một tên đang đứng phía ngoài cửa phì phèo. Cán bộ còn lại chăm chú kiểm duyệt thư. Tiếng rì rầm, chuyện trò rôm rả xunh quanh. Tấm bưu ảnh của thằng con gửi về được đặt vội lên bàn.
 
“Thưa Ba Mẹ,
Con đang ngồi ở bàn viết của ông Thomas tại Stockholm. Cả ông lẫn bà đang đứng đằng sau lưng con để gửi lời thăm Ba Mẹ. Ông Thomas, bà Marianne đã dẫn con đi thăm thành phố. Ông Thomas bảo con nhắc ba giữ sức khỏe. Tất cả đều đang hết lòng lo cho Ba và các bác, các chú bên nhà. Ông bà Thomas cùng ký tên với con, nói là mong sớm gặp Ba Mẹ.”
 
“Có chữ ký của ông bà Thomas, anh thấy không?”
 
“Anh thấy.”
 
Thomas Von Vegesack, nhà văn Thụy Điển, nguyên chủ tịch Văn Bút Thế Giới, hiện là Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Tế Các Nhà Văn Bị Cầm Tù. Marianne Eyre là Tổng Thư Ký Văn Bút Thụy Điển.
 
Tấm bưu ảnh được lật lại: mặt hồ và cảnh rừng tĩnh lặng, phong cảnh đất nước Thụy Điển thanh bình. Những tấm lòng rộng mở. Anh ấy cười. Nụ cười lạ, làm lấp lánh giọt nước mắt trên khuôn mặt đen đủi. Gần ba mươi năm biết nhau, đây là lần đầu tiên anh để tôi nhìn thấy nước mắt.
 
“Tin tức về các bạn thế nào?”
 
“Anh Ba Tiệp, cô Chín, bà Simpson... vẫn liên lạc đều. Thủ tướng Olof Palme, người bảo lãnh cho gia đình mình có giấy nhập cảnh vừa bị ám sát chết. Em có gửi được thư phân ưu cho ông Thủ Tướng mới. Tom Hansson, nhà báo Thụy Điển hiện đang có mặt ở Sài Gòn, có cho biết ngoại trưởng Thụy Điển sắp tới Hà Nội.”
 
“Đã tìm được cách nạp hồ sơ chưa?”
 
“Không có cách nào hết. Giấy nhập cảnh Thụy Điển đóng con dấu vương miện hoàng gia màu tím. Mang nạp, bọn chúng bảo giấy gì mà con dấu giống cái chùa, không phải giấy thật.”
 
“Tom có hẹn gặp lại không?”
 
“Có hẹn sẽ trở lại ngày mai. Tom muốn biết tin tức về anh.”
 
Tom Hansson là nhà báo nổi tiếng của Thụy Điển thường lui tới Việt Nam. Từ mấy năm trước, do bạn bè trong PEN và Amnesty gửi gấm, Tom tới thăm tận nhà, thu thập những chi tiết về các nhà tù Việt Nam. Từ có biết chuyện này.
 
“Tiếng Anh của Sớm Mai khá chưa?”
 
“Khá, có thể đủ để nói được mọi chuyện.”
 
“Con đã thoát. Mớ chỉ rối của chúng ta vậy là đã gỡ được nút đầu tiên. Không có gì phải lo lắng, sợ hãi nữa. Ta pi đi. Một sống hai chết. Cần xử sự xứng đáng với tấm lòng tốt đẹp bạn hữu đã dành cho con ở Stockholm. Đừng để nó phải xấu hổ. Hai mẹ con thu xếp gặp Tom. Nói cho hết những điều cần nói. Yêu cầu Tom ghi rõ tên họ, ngày tháng, cho làm lớn trên báo. Muốn tới đâu thì tới. Ý em thế nào?”
 
Còn thế nào nữa. Nhìn nhau. Gật đầu. Bây giờ mới hỏi thăm được các bạn:
 
“Anh Hinh, anh Tế ra sao?”
 
“Yên cả. Không sao đâu. Hinh muốn có cuốn Qui Luật Của Muôn Đời, sách dịch của nhà văn Nga Đum Ba Giê. Em chịu khó kiếm cho anh ấy.”
 
Có tiếng hô lớn:
 
“Thân nhân bắt đầu đăng ký gửi tiền cho trại viên.”
 
Giờ thăm gặp sắp hết. Ở bàn đầu, thân nhân thăm nuôi đã lục tục kéo lên bàn cán bộ làm thủ tục gửi tiền.
 
“Lần thăm nuôi trước, lúc vào, nghe tin cán bộ trại giữ em lại làm việc?”
 
Chuyện từ mấy tháng trước. Giờ thăm nuôi bị rút ngắn. Vào một phòng nhỏ. Cán bộ trưởng trại đích thân gặp. Có trà nóng mời uống.
 
“Chẳng có gì đâu. Đài BBC loan tin anh và anh Tế đang bị hành hạ trong trại tù. Họ bảo anh phải ở đội lao động nặng chỉ vì chưa tự giác, em phải động viên anh để anh an tâm cải tạo. Trưởng trại hỏi em có muốn anh là người sẽ trở về sau cùng không.”
 
“Em trả lời sao?”
 
“Em nói anh không phải là người trở về sau cùng. Người về sau cùng sẽ chính là cán bộ. Vì còn một người tù, cán bộ phải còn ở lại chăm coi tù.”
 
Lại ngó nhau, cười. Tấm bưu ảnh được bỏ lại vào bóp.
 
“Em thay anh trả lời, cám ơn.”
 
“Em đã viết thư trả lời, cám ơn xong rồi.”
 
Trời mưa. Lắc rắc thôi, vậy mà con đường lội bộ trở ra đầy sình. Bên đường, ngang qua khu ruộng bắp èo uột, có một mái nhà tranh. Đây là nhà lô, chỗ cất xẻng cuốc của một đội khổ sai nào đó. Lần trước khi đi qua, thấy có đống lửa. Một đoàn tù đứng ngồi lổn ngổn trong nhà, ngoài sân, chắc đang giờ giải lao. Bây giờ, trong mưa, căn nhà trống trải tưởng như chỉ chờ thêm một cơn gió nhẹ nữa là xụm xuống.
 
Không thấy tướng cướp núi Mây Tào xuất hiện.
 
***
 
Trên đây là một trích đoạn “Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng”.
Năm 1988, Từ ra khỏi nhà tù, chúng tôi sang Thụy Điển. Trần Duy Hinh vẫn rừng lá, trong số 10 người tù cuối cùng, ở đủ 17 năm.
 
Mấy tháng trước khi rời đất nước, một vài lần, trong lúc Từ đi thăm Tú Kếu, tôi đi thăm nuôi Thảo Trường ở trại Hàm Tân. Vẫn K2, vẫn con đường ngoằn ngoèo, vẫn những cây kè tàng lá bị cắt lên tận ngọn, lấp ló mấy cái lán tù lợp lá tả tơi, mãi chưa chịu xập.
 
Chúng tôi sang tới Thụy Điển. Thảo Trường đưa lén cho cô cháu thăm nuôi gửi sang tận nơi mảnh giấy nhỏ bằng bàn tay, ghi nguệch ngoạc mấy chữ  thăm hỏi. Năm 1989, lại một mảnh thư báo tin đang bị bịnh tim, nằm bệnh xá trại tù Hàm Tân. Buồn. Chỉ muốn chết. Buồn muốn chết mới đúng. Bạn bè, nhà văn, nhà tù đã lần lượt chết, hoặc được thả ra. Đâu còn ai nữa.
 
Đó là mấy tờ thư tôi còn giữ.
 
Bệnh cũng không chết. Buồn cũng không chết. Mãi tới 1992 mới gặp lại ở Mỹ. Từ đó, không bao giờ Thảo Trường gọi tôi bằng tên Nhã nữa. “Anh ta”, Thảo Trường chỉ tôi, nói với Từ và chọc: “Cuối cùng anh ta vẫn phải chịu thua thằng cá sấu.”  Đó là những cái tên chúng tôi gọi nhau trong tình thân. 
 
Tôi có tới căn nhà ở Huntington Beach thăm chị Thảo Trường, nhìn thấy chị. Cao, gầy, mảnh mai như cây sậy mà đầy nghị lực. Không vậy sao có thể một mình đem bầy con đi Mỹ, nuôi nấng lớn khôn, còn chăm những thùng đồ về Việt Nam nuôi ông chồng 17 năm tù.
 
“Bà ơi! Lúc đi tôi có đem theo một cọng rau húng nhũi. Bây giờ nó đầy một vườn sau kìa. Bà bứt một vài dây về trồng, nó còn giữ mùi đất cũ, thơm lắm.” Trong lúc hai ông ngồi riêng, chị kéo tôi ra vườn rau, bắt kể chuyện những lần đi thăm nuôi ông Từ, ông Hinh ở Hàm Tân.
 
Chúng tôi vẫn gặp nhau. Cho tới những ngày cuối của Thảo Trường, hai ông bạn vẫn bàn chuyện sách vở, chữ nghĩa. Một lần, Thảo Trường bước vô tòa soạn Việt Báo.
 
“Anh ta đâu rồi?”
 
“Tôi đây”.
 
“Anh ra ngoài gặp bà lão một chút.”
 
Bà lão nào? Tôi ra xe. Chị Thảo Trường tươi cười:
 
“Bận coi đứa cháu ngoại, không vô thăm chị được.”
 
Một đứa nhỏ kháu khỉnh, nằm trong cái xe xách, buộc phía băng ghế sau, bên cạnh bà ngoại. Thì ra, khi lên chức ông bà, Thảo Trường gọi vợ là bà lão.
 
Chị Thảo Trường đi trước.
 
Không bao lâu, bạn tôi đi theo. Làm như sợ hụt nhau trong chuyến đò qua sông.
 
Nghe tin bạn ra đi, Từ và Nguyễn Xuân Nghĩa chạy vội lại nhà.
 
“Con cháu đông đủ. Trước khi vô phòng ngủ trưa, còn cười vui với bà chị vừa từ xa về thăm. Vậy mà đi luôn. In hệt đang ngủ ngon trên giường. Ôm hắn, thấy như còn hơi ấm, mặt mũi tỉnh queo...”  Từ kể, sau khi đến thăm bạn lần cuối.
 
Vậy là ông lão, bà lão lại cùng một chuyến đò.
 
Sông tỉnh hay sông mê vẫn có nhau như thường.
 
Cầu chúc hai bạn tôi an lạc.
 
Nhã Ca
Tháng 8, 2010
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.
Anh cho xe dừng lại nơi góc đường rồi đi bộ về phía căn nhà. Tuyết đang rơi dầy đặc trắng xóa cả bầu trời, đúng là một White Christmas như nhiều người mong muốn. Những ánh đèn màu trang hoàng trước sân các nhà nhấp nháy vui tươi như đang mừng đón Chúa Hài Đồng giáng trần. Anh bước lên bậc thềm gỗ, bước rón rén đến cửa sổ nhìn qua tấm rèm mỏng, hơi giật mình sựng lại khi thấy ba mẹ con cô ấy đang dọn bữa ăn đêm Noel. Hẳn là họ vừa đi lễ về, anh thầm nghĩ. Nhìn đứa con trai mười ba tuổi và đứa con gái mười một tuổi giúp mẹ sắp xếp bày biện thức ăn trên bàn, anh thoáng chút xúc động và an tâm vì các con đã lớn, có thể đỡ đần mẹ trong nhiều việc nhà, anh cũng thấy bớt đi mặc cảm tội lỗi của mình.
Chuyện xảy ra trên một chuyến xe Greyhound. Xe đò Greyhound có vẽ con chó sói xoải cẳng phi nước đại bên hông là thứ nối liền các thành phố bên Mỹ và Canada. Nhiều người trong chúng ta chắc đã từng ngự trên những chuyến xe xuyên liên bang này. Tôi cũng đã từng xuôi ngược với Greyhound. Từ Montreal qua Washington D.C. thăm bạn bè dân thủ đô nước Mỹ như các ông Dzương Ngọc Hoán, Nguyễn Tường Đằng. Từ Vancouver qua Portland thăm ông Từ Công Phụng. Từ Seattle về Vancouver sau khi cưỡi du thuyền đi Alaska thăm mấy chú gấu tuyết. Nói như vậy để thấy tôi cũng có chút kinh nghiệm khi chen vai thích cánh cùng những người không có hoặc ngại lái xế riêng.
Hai chữ giang hồ không mấy xa lạ trong đời sống của mỗi người đều thường đề cập trong thơ, văn, điện ảnh… và cũng là câu nói thường tình với cá nhân, nhóm người trong xã hội. Tác phẩm Thủy Hử ban đầu là Giang Hồ Khách Truyện, sau lấy tên là Thủy Hử vì “căn cứ địa” Lương Sơn là vùng đầm, hồ nên Thủy Hử (bến nước). Truyện nầy qua bản dịch của La Thần và Á Nam Trần Tuấn Khải, gồm 3 cuốn, năm 1973, sau đó với Tử Vi Lang nên rất quen thuộc với độc giả Việt Nam. Trong truyện Thủy Hử của của nhà văn Thi Nại Am (1296-1372) ở Trung Hoa vào triều Nguyên-Mông (1295-1368), kể về câu chuyện của Tống Giang triều nhà Tống, nổi dậy kéo theo “giang hồ hảo hán” gồm 108 người đến núi Lương Sơn. Gọi là anh hùng Lương Sơn Bạc.
Ở Sơn Tây, tôi là khách lạ nhưng mang tâm trạng sâu đậm như người trở về nguồn cội. Đầu tiên tôi tìm mua tấm bản đồ tỉnh lỵ nhưng không ai bán, họ chỉ dẫn địa điểm Thành Cổ rồi theo 4 hướng Đông Tây Nam Bắc của hình vuông ấy là sẽ tìm ra mọi nơi. Hướng Nam đối diện với phố Quang Trung còn gọi là Cửa Tiền, Cửa Hậu ở hướng Bắc có phố Lê Lợi và nếu đi thẳng đến cuối đường sẽ gặp sông Hồng, hướng Đông là Cửa Tả nhìn ra chợ Nghệ và cuối cùng hướng Tây hay Cửa Hữu có phố Ngô Quyền.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.