Hôm nay,  

Nổi Mụn: Có Nên Nặn Không?

28/03/202500:00:00(Xem: 1450)

iStock-1097647980 mụn
Chắc hẳn đối với nhiều người nặn mụn là một thói quen khó cưỡng, nhưng liệu việc này có nguy hiểm gì không? (Ảnh: istockphoto.com)
 
Có thể các bạn đã từng nghe rằng trên khuôn mặt chúng ta có một khu vực được gọi là “tam giác nguy hiểm” hay “tam giác tử thần”, và nặn mụn ở chỗ này có thể bị nhiễm trùng nặng, dẫn đến nguy hiểm.

Và tuy trường hợp bị nhiễm trùng nặng ở vùng tam giác nguy hiểm thực sự rất hiếm, việc chúng ta chú ý, cẩn trọng hơn với thói quen nặn mụn vẫn là một điều tốt.

Vậy tại sao khu vực từ sống mũi đến hai khóe miệng lại được cho là đặc biệt nguy hiểm và nặn mụn có thể gây ra những nguy hại gì?

Các bác sĩ da liễu thường khuyến cáo không nên sờ mó vào mấy nốt mụn, và họ cũng quá hiểu rằng có một số người sẽ cầm lòng không đặng mà bỏ ngoài tai những lời khuyên này.

Tam giác nguy hiểm là gì?

“Tam giác nguy hiểm” hay “tam giác tử thần” trên khuôn mặt chúng ta là khu vực nằm từ sống mũi đến hai khóe miệng. Khu vực này có mạng lưới mạch máu liên kết trực tiếp đến não bộ, nếu xảy ra nhiễm trùng có thể gây ra các biến chứng rất nguy hiểm.

Theo Joshua Zeichner, bác sĩ da liễu tại Bệnh viện Mount Sinai, dù hiếm gặp nhưng cũng có một số trường hợp nhiễm trùng tại đây dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng, như tê liệt một phần mặt.

Vùng trung tâm khuôn mặt chứa mạng lưới mạch máu dày đặc, tất cả đều dẫn đến xoang hang, vùng rỗng nằm phía sau hốc mắt, kết nối trực tiếp với não bộ. Nếu vi khuẩn, vi trùng xâm nhập vào khu vực này và gây nhiễm trùng, chúng có thể hình thành các cục máu đông. Những cục máu đông có thể di chuyển đến não, gây ra tình trạng cục máu đông ứ trong xoang hang.

Nhưng ông cũng nói thêm rằng nặn mụn trong khu vực này hiếm khi gây nhiễm trùng tới mức lan đến xoang hang. Vì dù nặn mụn có thể tạo ra vết thương hở, nhưng thường lượng vi khuẩn xâm nhập không đủ để gây nhiễm trùng sâu tới xoang hang, và các tế bào miễn dịch trong da cũng sẽ giúp ngăn chặn vi khuẩn xâm nhập vào máu.

Bất kỳ cách mổ xẻ nặng nhẹ nào được thực hiện ở vùng “tam giác nguy hiểm” đều cần phải cẩn trọng, vì khu vực này có mạng lưới mạch máu dày đặc, dễ chảy máu nhiều và tụ máu, có thể dẫn đến tổn thương mô hoặc nhiễm trùng.

Những nguy hại khi nặn mụn

Mặc dù nặn mụn có thể không gây nguy hiểm đến mức tử vong, nhưng vẫn có thể dẫn đến những hậu quả không mong muốn, gồm nhiễm trùng, da bị thâm hoặc để lại sẹo vĩnh viễn. Ở những chỗ có nhiều mạch máu thì nguy cơ nhiễm trùng lan rộng sẽ cao hơn.

Ngoài khu vực tam giác nguy hiểm, các bác sĩ da liễu khuyến cáo rằng tốt nhất là không nên nặn mụn. Bác sĩ Sandra Lee (nổi tiếng trên YouTube với biệt danh Dr. Pimple Popper) cho biết: “Việc nặn mụn thường hại nhiều hơn lợi.” Bác sĩ da liễu Jayden Galamgam cũng đồng ý, cho rằng: “Rất ít trường hợp cần phải nặn mụn.”

Mụn hình thành khi lỗ chân lông hoặc nang lông bị tắc nghẽn do dầu (chất nhờn) hoặc tế bào chết ứ đọng trên da, gây ra các nốt sần gọi là nhân mụn (hay đầu mụn, cồi mụn). Có hai loại đầu mụn: đầu mụn mở (mụn đầu đen) và đầu mụn đóng (mụn đầu trắng). 

Mụn đầu đen là loại mụn có nhân hở. Khi tiếp xúc với không khí, chất nhờn bên trong bị oxy hóa, tạo ra màu đen đặc trưng. Việc lấy mụn đầu đen thường an toàn nếu được thực hiện đúng cách bởi các chuyên gia.

Ngược lại, mụn đầu trắng là loại mụn có nhân bị bít kín dưới da, hình thành khi lỗ chân lông bị tắc nghẽn hoàn toàn bởi dầu thừa, tế bào chết và vi khuẩn. Loại mụn này thường xuất hiện dưới dạng các nốt nhỏ, có thể có hoặc không có đầu trắng. Trong một số trường hợp, mụn đầu trắng có thể kích thích phản ứng miễn dịch, gây viêm nặng hơn với các nốt đỏ, đau, chứa mủ sâu dưới da, được gọi là mụn viêm (hay mụn trứng cá). Cố nặn mụn loại này có thể gây tổn thương và làm tình trạng viêm trở nên tồi tệ hơn, vì vi khuẩn có thể lan rộng và gây nhiễm trùng sâu hơn. Tự ý nặn mụn trứng cá cũng có thể làm thâm da và để lại sẹo.

Để giải quyết mụn mà không cần nặn, sử dụng miếng dán trị mụn. Những miếng dán này giúp giữ ẩm cho da, ngăn chặn vi khuẩn, hạn chế thói quen sờ vào mụn, và quan trọng là che “khuất mắt,” giúp chúng ta đỡ bị ám ảnh về nó. 

Nếu mụn vẫn không tự hết, nên đến gặp bác sĩ da liễu để tìm phương pháp điều trị phù hợp. Một số trường hợp mụn cần được bác sĩ can thiệp để lấy mụn ra hoặc áp dụng các phương pháp điều trị đặc biệt.

Nặn mụn an toàn

Tuy nhiên, các bác sĩ cũng biết tỏng rằng đôi khi chúng ta không thể cưỡng lại việc nặn mụn. Và lúc đó, hãy đảm bảo thực hiện đúng cách để giảm thiểu nguy cơ nhiễm trùng và tổn thương da. Hãy coi việc nặn mụn như một “thủ thuật y tế nhỏ” và tuân thủ các bước sau. Đầu tiên, quý vị cần làm sạch da, tay và dụng cụ nặn mụn bằng xà bông, nước hoặc cồn để tránh vi khuẩn xâm nhập.

Chỉ nên nặn mụn khi mụn đã “chín,” tức là khi cồi mụn đã hình thành rõ ràng. Khi nặn, hãy sử dụng khăn giấy sạch quấn quanh ngón tay hoặc, tốt hơn, dùng dụng cụ nặn mụn chuyên dụng đã được khử trùng. Ấn nhẹ nhàng và đều đặn lên mụn, tránh bóp mạnh để không làm rách da hoặc để lại vết thâm, sẹo. Sau khi nặn, dùng tăm bông thoa benzoyl peroxide lên chỗ nặn và xung quanh để khử trùng.

Theo bác sĩ Lee, chỉ nặn mụn thôi không phải là cách trị mụn hiệu quả. Để giải quyết mụn, quý vị nên sử dụng các sản phẩm trị mụn không kê đơn, chẳng hạn như. Bà cho biết: “Salicylic acid giúp làm sạch lỗ chân lông bị tắc, rất hiệu quả trong điều trị mụn đầu đen và mụn đầu trắng. Benzoyl peroxide thì có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn gây mụn và ngăn ngừa viêm nhiễm.” Ngoài ra, retinoids sẽ giúp làm thông thoáng lỗ chân lông, có hiệu quả trong việc ngăn ngừa mụn trứng cá.

Mặc dù các sản phẩm này rất hữu ích, nhưng nguyên nhân gây mụn không chỉ là do tắc nghẽn lỗ chân lông hay vi khuẩn. Các yếu tố không thể kiểm soát như di truyền, thay đổi nội tiết tố, và căng thẳng đầu óc (stress) cũng góp phần làm nổi mụn. Vì mỗi người có cơ địa và tình trạng da khác nhau, cách điều trị mụn cũng sẽ khác nhau.

Nếu tình trạng mụn không cải thiện hoặc đang bị mụn viêm nặng, gây đau đớn như mụn mủ, mụn bọc, quý vị nên sớm đi bác sĩ da liễu để tránh nguy cơ bị thâm, nám hoặc sẹo vĩnh viễn.
 
Cung Mi biên dịch
 
Nguồn: “Everybody is tempted to pop zits—but is there a safe way?” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong những năm gần đây, danh tiếng của Monosodium Glutamate (MSG), hay còn gọi là bột ngọt hoặc mì chính, đã dần được phục hồi. Từng bị cáo buộc là nguyên nhân của các triệu chứng như nhức đầu, tê rần và châm chích, tức ngực, khó thở, MSG đang dần được đón nhận trở lại. Hiện tại, bột ngọt đang có mặt trong một số loại đồ uống, bánh kẹo và cả các buổi giới thiệu gian bếp gia đình của những người có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội.
Những tranh luận tưởng chừng đã khép lại từ nhiều năm trước lại bất ngờ bùng lên khi chất bảo quản (preservative) thimerosal – từng được sử dụng trong vắc-xin dành cho trẻ em – được đưa trở lại nghị trình của ủy ban cố vấn thuộc Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Câu chuyện bắt đầu tại buổi họp đầu tiên của Ủy ban cố vấn về Chủng ngừa (ACIP) thuộc CDC kể từ ngày 11 tháng 6, sau khi Bộ trưởng Y tế Robert F. Kennedy Jr. bất ngờ thay thế toàn bộ 17 thành viên cũ bằng 8 người do chính ông chỉ định. Phiên họp này diễn ra vào ngày 25-26 tháng 6 năm 2025, tập trung vào các loại vắc-xin phòng COVID-19, HPV, cúm mùa và các bệnh truyền nhiễm khác. Nhưng theo lịch trình mới được cập nhật, nội dung họp lần này còn bao gồm phần trình bày về chất bảo quản thimerosal, đồng thời bỏ phiếu về đề nghị tiếp tục sử dụng chất này trong các loại vắc-xin cúm.
Chích ngừa bệnh sởi đầu tiên được cấp phép vào năm 1963 và trở thành một phần của tổng hợp các loại vaccine sởi, quai bị và rubella, hay vaccine MMR, vào năm 1971. Ngày nay, vaccine ngừa bệnh thủy đậu đôi khi được kết hợp thành loại gọi là vaccine MMRV. Thông thường, trẻ em từ 12 đến 15 tháng sẽ được chích mũi đầu tiên vaccine ngừa bệnh sởi. Mũi thứ hai diễn ra trong độ tuổi từ 4 đến 6. Các chuyên gia khuyến khích trong thời gian dịch bệnh bùng phát, trẻ em nhỏ nên chích ngừa, như đợt bùng phát bệnh sởi đang diễn ra ở Hoa Kỳ, đã dẫn đến hơn 1.200 trường hợp, trong số đó là 750 ca nhiễm ở Texas. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, 95% các trường hợp xảy ra ở những người chưa được tiêm vaccine hoặc những người không rõ tình trạng chích ngừa.
Hãy thử nhắm mắt lại và hình dung một trái táo. Quý vị thấy gì? Màu đỏ chín mọng hay màu xanh óng ánh? Trái táo nằm trên bàn, đang lơ lửng trong không khí hay được ai đó cầm trên tay? Nếu đã cố gắng mà chỉ thấy một khoảng không vô định, rất có thể quý vị đang trải qua một tình trạng đặc biệt có tên là aphantasia – hội chứng mất khả năng hình dung hình ảnh trong tâm trí. Dù mới được đặt tên gần đây, hiện tượng này đang mở ra những hiểu biết mới mẻ về sự đa dạng trong cách não bộ con người hoạt động và ghi nhớ thế giới.
Khi nhắc đến bọ ve (ticks), người ta thường nghĩ ngay tới những ký sinh trùng đáng sợ, lặng lẽ bám theo những bước chân dã ngoại cuối tuần hoặc những buổi dạo chơi công viên. Nỗi sợ đó không phải vô lý. Từ lâu, bọ ve đã là nguyên nhân truyền bệnh phổ biến nhất tại Hoa Kỳ trong nhóm bệnh có vật thể trung gian. Chúng hút máu từ nhiều loài động vật, hấp thu mầm bệnh rồi truyền sang người qua mỗi vết cắn. Có những bệnh nguy hiểm như Lyme, babesiosis và sốt Rocky Mountain – nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời, hậu quả sẽ khôn lường, thậm chí có thể tử vong.
Chắc hẳn quý vị đã đôi lần bắt gặp những quảng cáo từ các chuyên gia vật lý trị liệu về phương pháp điều trị nhức đầu và không khỏi băn khoăn: “Có hiệu quả thật không vậy?” Câu trả lời là: Có! Đã có khá nhiều nghiên cứu đáng tin cậy chứng minh rằng các liệu pháp vật lý trị liệu có thể hữu hiệu, đặc biệt là với những cơn nhức đầu liên quan đến vùng cổ.
Nếu từng nghe ai đó bảo rằng “bình tĩnh, hít một hơi sâu vào,” thì quý vị đừng vội nghĩ đó là lời khuyên vu vơ, sáo rỗng. Thực ra, khoa học đã chứng minh điều đó hoàn toàn đúng. Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc hít thở một cách có ý thức mang lại hàng loạt lợi ích, cả ngắn hạn lẫn lâu dài: từ cải thiện sức khỏe tim mạch, giảm bớt lo lắng, tinh thần sảng khoái hơn, đầu óc minh mẫn và giấc ngủ cũng sâu hơn.
Ngày nay, ung thư đại tràng (hay còn gọi là ung thư ruột già) không còn là căn bệnh của tuổi già nữa. Cứ 5 người được chẩn đoán thì có 1 người chưa đến 54 tuổi, đánh dấu mức tăng 11% trong nhóm tuổi này trong vòng hai thập niên qua. Tại sao căn bệnh này lại bùng phát sớm như vậy? Câu hỏi này đã làm đau đầu không ít bác sĩ và khoa học gia. Sau nhiều năm miệt mài tìm kiếm, giới chuyên gia từ lâu đã nghi ngờ colibactin, một loại độc chất do vi khuẩn E. coli và một số vi khuẩn khác sản sinh, có thể phá hủy DNA. Mới đây, một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature đã xác định mối liên quan rõ ràng giữa việc tiếp xúc với colibactin từ thuở nhỏ và nguy cơ mắc ung thư đại tràng ở những bệnh nhân dưới 40 tuổi.
Tuổi vị thành niên vốn đã là giai đoạn không dễ dàng, nhưng thanh thiếu niên ngày nay lại đang gặp phải những rắc rối về sức khỏe mà chưa thế hệ nào từng trải qua. Theo một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Y khoa The Lancet, hơn một tỷ người trong độ tuổi từ 10 đến 24 (tương đương ít nhất một nửa tổng số thanh thiếu niên trên toàn thế giới) có nguy cơ gặp hậu quả sức khỏe nghiêm trọng vào năm 2030. Béo phì tăng nhanh, các vấn đề về tâm thần ngày càng trầm trọng, công nghệ kỹ thuật số xâm nhập sâu vào đời sống, biến đổi khí hậu – tất cả đang cùng tạo thành một cuộc khủng hoảng sức khỏe đối với giới trẻ.
Các chuyên gia y tế công cộng đã cảnh báo từ lâu rằng virus COVID-19 vẫn chưa biến mất. Giờ đây, SARS-CoV-2 lại tiếp tục biến đổi thành một biến thể mới có tên NB.1.8.1, hiện đang bùng phát các ca lây nhiễm tại Trung Quốc. Một số trường hợp cũng vừa xuất hiện ở Hoa Kỳ, theo thông báo từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC). Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng đã đưa biến thể này vào danh sách “biến thể đang được theo dõi”.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.