Hôm nay,  

Lê Ký Thương, Khép Lại Những Hẹn Hò...

14/03/202521:03:00(Xem: 2321)
lkt 2

Họa sĩ Lê Ký Thương (1946 - 2025) bên một tác phẩm của mình

tại triển lãm Lạy Tạ (2009) – Nguồn: vnexpress.net 


Sáng sớm hôm nay, khi mở hộp thư, nhận được tin, tôi liền điện thoại cho anh Phạm Văn Nhàn, người bạn thân với anh chị Thương – Quy. Hỏi, “Anh Nhàn ơi, anh hay tin gì chưa? Anh Lê Ký Thương đã ra đi lúc 9 giờ 50 phút sáng hôm nay 14/2/2025. Cả hai anh em đều buồn. Im lặng một lúc, anh kể mới gọi thăm anh LKT cách nay mấy tuần. Chị Quy nói chuyện rồi đưa phone qua cho anh Thương, nhưng khi đó miệng anh Thương đã cứng, không nói được gì...

Nhớ anh Lê Ký Thương là nhớ tới một người rất tài hoa và rất hiền, có biệt danh là Cóc, mà lúc đầu tôi nghĩ có lẽ anh đặt vui do câu “Con Cóc là cậu Ông Trời”. Nhưng không phải vậy, mà sâu sắc hơn nhiều. “Bọn trẻ con chúng tôi ngày ấy có hôm bắt được một con cóc, cho cóc ngậm thuốc lá. Thế là cóc say thuốc, quay mòng mòng. Chúng tôi được một bữa cười thỏa thích. Ngẫm lại thấy có tội trong việc hành hạ một sinh vật. Hình ảnh ấy chẳng khác gì những kẻ thủ ác đối với con người… Năm nay tôi đã ngoài 60 mà vẫn ám ảnh đến chuyện đó. Tôi bày Họ nhà Cóc để xin được xá tội. Vả lại tôi cũng thích một câu dân gian ‘Cóc cắn ba năm trời gầm mới nhả’ – sự quyết liệt trong một hành động mà tôi luôn phải học tập…” [1]

Mở lại thư ngày cũ, tháng 4/2023, khi về Sài Gòn thăm gia đình, tôi có hẹn với anh chị LKT và những anh chị khác trong nhóm Ý Thức cùng với Hoàng Kim Oanh ở café Đường Sách. HKO đã giữ lại cho chúng tôi khoảnh khắc quý giá đó bằng những hình ảnh thật đẹp. Các anh Đỗ Hồng Ngọc, Thân Trọng Minh, Châu Văn Thuận, anh chị LKT, Hoàng Kim Oanh và tôi, như trẻ hơn. Ai có thể ngờ đây là những “cụ ông, cụ bà” trong khoảng tuổi U70 – U90, khiến tôi tự hỏi hạnh phúc có phải là liều thuốc tiên? Oanh và tôi còn có hình chụp riêng với anh chị LKT và tôi có mấy tấm đứng với anh Thương cười rất tươi nữa. Rồi tháng 9 cùng năm tôi lại về. Lần này anh Đỗ Hồng Ngọc ra mắt cuốn “Một ngày kia đến bờ” (mới lấy từ nhà in ra nên còn nóng hổi) ở quán chay Phương Mai trên đường Võ Thị Sáu (Hiền Vương cũ). Lại được dịp gặp anh chị LKT. Tôi rất cảm động khi thấy anh khá mỏi mệt do mới cùng con đi thăm sui gia ở tỉnh về, nhưng vẫn ráng đến dự để gặp bạn xa...

Năm ngoái, nghe tin anh bệnh nặng, nhưng bác sĩ cho về nhà và chị Kim Quy chăm sóc anh rất tận tình 24/7. Do đó, tháng 9/2024 khi trở lại Saigon, tôi hẹn đến thăm anh. Chị Kim Quy rất chu đáo đã mời các bạn đến chơi để cùng gặp nhau. Bữa đó có anh Vũ Trọng Quang, Hoàng Kim Oanh và những ai nữa tôi không nhớ rõ. May sao anh Thương khỏe hơn, rất tỉnh và vui, còn đùa với các bạn là chị Quy chỉ đứng thứ nhì, còn hạng nhất thì anh không chịu tiết lộ. Tuy nhiên, ai cũng thấu hiểu trong “tim đen” của anh, chị Quy luôn là số 1. Chẳng thế mà năm xưa anh cầu hôn cùng chị, cô giáo dạy Sử cấp 3 người Huế, bằng bài thơ:

ANH MONG
Anh mong trong mái nhà này
Cùng em san sẻ đắng cay ngọt bùi
Con mèo khe khẽ ngoắt đuôi
Vờn qua những quyển sách đời anh mê
Và tình bạn suốt bốn mùa
Thiếu bao thứ ấy hóa thừa đời anh.
(Lê Ký Thương phỏng dịch từ nguyên tác Le Chat của Guillaume Apollinaire)

Và càng xác tín sau này: “Anh đã chọn con đường gian khổ/ Đâu bằng em chọn anh san sẻ cuộc đời/ Những đêm trắng, trắng trang giấy trắng/ Anh hiểu rằng: Em can đảm lắm, em ơi”.

Lê Ký Thương sinh năm 1946, quê quán làng Vĩnh Điềm Thượng, quận Vĩnh Xương, nay thuộc TP Nha Trang (cách Thành – Diên Khánh 6 cây số). Trong một lần trò chuyện với “người nhà quê già” Hai Trầu Lương Thư Trung, LKT cho biết đã “coi văn chương và nghệ thuật là NGHIỆP. Đã mang lấy nghiệp vào thân. Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa (ND). Và mê vẽ trước khi biết tập tễnh làm thơ.” [2] Anh chia sẻ với nhà thơ Phan Vũ về thuở ban đầu đến với hội họa do cha là một nhà nho, chữ đẹp. Nên khi có người nhờ cha viết sớ thì anh phải mài thỏi mực to và cứng cả tiếng đồng hồ rất mỏi tay và chán nản, bù lại được xem cha “múa bút và rất thích thú với đường nét bay lượn của những con chữ. Ý thức về hội họa có lẽ bắt nguồn từ những giờ phút mệt mỏi và thú vị ấy…” [1]  Lê Ký Thương có tranh trong các bộ sưu tập cá nhân ở các nước: Mỹ, Pháp, Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Hong Kong, Singapore”. [2] Đã tham gia nhiều cuộc triển lãm. Có thể kể: triển lãm tranh sơn dầu tại Trung Tâm Văn Hóa Pháp – Đà Lạt (1974). Sau 1975 là những cuộc triển lãm tại phòng tranh Tự Do (Sài Gòn), chung với Thân Trọng Minh (1998); triển lãm cá nhân loạt tranh sơn dầu “Ký Ức Tuổi Thơ” (?), triển lãm tranh và tượng gốm “Họ nhà Cóc” (2007), triển lãm loạt tranh “Lạy tạ” (2009). Đó cũng là lần triển lãm cuối cùng của anh, do năm 2010 bị tai biến, tưởng không qua khỏi. May mắn thay, anh tâm sự, “sau 21 ngày nằm điều trị tại BV 115 SG, tôi hồi phục một cách thần kỳ. Từ đó, tôi bị yếu cơ tay mặt, chỉ sử dụng tay trái gõ bàn phím, điều khiển chuột hay cầm cọ vẽ trên khổ giấy A4 tối đa.” [2]

Tác phẩm thơ: Bếp lửa còn thơm mùi bã mía, Ý Thức 1974 (phổ biến hạn chế, in những bài thơ đã đăng trên tạp chí Đất Nước, Đối Diện, Ý Thức); Trò chơi Trời cho: Hành Trình Nghiệp Thơ (Bản Thảo 2018); Góp Nắng Cho Cây, (dành cho lứa tuổi Nhi đồng 6 – 11, Nhà xb Kim Đồng 2023).

Về dịch thuật, Lê Ký Thương đã chuyển ngữ ba tác phẩm lớn: Một nỗi đau riêng dịch từ bản tiếng Anh tiểu thuyết của nhà văn Nhật Bản Kenzaburō Ōe, Nobel Văn chương 1994 (Nxb. Văn Nghệ, 1997); Phù thủy xứ Oz được dịch từ nguyên tác The Marvellous Land of Oz của nhà văn Mỹ L. Frank Baum (Nxb. Văn Nghệ, 1997) và Tchékhov – cuộc đời và tác phẩm dịch từ bản tiếng Pháp của Sophie Laffitte (Nxb. Thời Đại, 2009). Và bốn truyện thiếu nhi: Phép mầu – Mary Kay Roth, Con bướm cuối cùng – Michael Welzenbach, Kỷ niệm ngày mãn trường – Shirley Lord Bachelder, Nàng tiên cá – Selma  Lagerlöf.

Bên cạnh đó, anh có nhiều tạp văn và ký đi trên trang mạng Văn Chương Việt rất hay: Bài chòi quê ngoại, Bánh căn trên phố Saigon, Cơm cháy nồi đồng, Cơm mo cau giữa lòng thành phố, Dấu ấn từ một dòng sông, Hồn sách cũ, Hương vạn thọ, Lộc đầu năm, Như đường mía lau, Những người thiện tâm...

Chưa kể những tác phẩm còn trong dạng bản thảo dành cho những người thân trong gia đình và bạn thân:

– Nobel Văn chương Thế kỷ 20 (1901 – 2000) biên dịch theo tài liệu của Viện Hàn lâm Thụy Điển, S. 2004.
– 14 Họa sĩ Mỹ tiêu biểu (từ Gilert Stuart đến Jackson Pollock), S. 2004.
– Hành trình Nghiệp Vẽ – S.  2014
– Hành trình Nghiệp Văn [2]

Anh Hai Trầu chia sẻ, “Đọc hồi ức của Lê Ký Thương tôi dễ hòa nhập vào những trang đời mà tác giả đã từng trải… Chính cái “đức thành thật”, óc quan sát tỉ mỉ, với cách dùng chữ giản dị mà tinh xác và thuật miêu tả vừa phải mà tự nhiên trong những trang hồi ức của LKT, tác giả đã làm cho tôi thích thú và cảm động” [2]. Còn đối với nhà phê bình văn học Nguyễn Thị Tịnh Thy, “Chiêm ngắm chân dung Lê Ký Thương qua văn chương, tôi thật sự có ấn tượng với hình ảnh chàng trai tuổi đôi mươi trong một thời với Ý Thức và hình ảnh của “lão ngoan đồng” thích chơi với trẻ con trong độ bạc đầu. Tuổi thanh niên sôi nổi, dũng cảm chống chiến tranh, bất công, bạo quyền; tuổi lão niên đằm thắm, hiền lành góp từng tiếng lòng phụng sự lứa măng non. Vậy thì, xin mượn hai câu thơ của văn hào Lỗ Tấn để phác thảo chân dung văn học của Lê Ký Thương: “Trợn mắt coi khinh nghìn lực sĩ/ Cúi đầu làm ngựa các nhi đồng”. Trợn mắt hay cúi đầu đều là sự lựa chọn thái độ sống dấn thân, hết mình rất đáng trân trọng. Thái độ đó đã được lưu giữ trong hành trình sáng tác lắm chông gai, nhọc nhằn của đời “phu chữ” được Lê Ký Thương kín đáo gửi gắm trong bài thơ Nợ văn chương như sau:

“Suốt một đời
Tường dính mồ hôi
đậm dấu lưng người – máu rỉ
Nhòe mặt chữ
Tình bằng duyên nợ cái văn chương!” [3].

Họa sĩ, nhà thơ, nhà văn, dịch giả Lê Ký Thương cuối cùng đã chọn ngày Lễ Tình Nhân để “dừng bước giang hồ”. Thôi thì, “Những hẹn hò từ nay khép lại. Thân nhẹ nhàng như mây...” [4]. Anh thanh thản giã từ cõi tạm ở tuổi 80, để lại tiếc thương cho những người ở lại cùng bài thơ MƠ HOÀI NHỮNG GIẤC MƠ… ngọt ngào thấm đẫm thương yêu:

1.- Tháng mười, tiếng ễnh ương giục người gặt lúa. Cha lót ổ bên bụi chuối sau hè cho mẹ nằm. Con từ nơi đó sinh ra. Hương bưởi trong vườn phảng phất lưỡi dao tre. Bà mụ già run tay cắt rún. Giọt máu đầu đời con thấm sâu lòng đất ẩm. Biến thành những giấc mơ.

2.- Con lớn lên bằng nước cơm sôi và sữa mẹ thất thường. Ngày thôi nôi con cha mẹ nguyện cầu tám hướng bốn phương. Xin Ơn Trên cho con chọn một nghề nhàn hạ. Chiếc nia bày những mẫu vật tượng trưng. Con toét miệng cười sung sướng, giơ bàn tay nhỏ bé chụp vội nắm xôi. Nắm xôi tròn ôm trọn những giấc mơ con.

3.- Con thích rong chơi với những bạn chăn bò. Vô núi bẫy chim, ra đồng bắt dế. Chơi những trò chơi trời cho dân dã. Có lần con được làm vua. Ngồi trên chiếc ngai vàng làm bằng đôi cánh tay của hai “đô lực sĩ”. Nhưng con không mơ mình là thiên tử. Con chỉ mơ luôn là “hoàng tử bé” của người lớn thôi.

4.- Hoàng tử bé thì rất thảnh thơi. Khi chán học i tờ hay đồ tô theo nét chữ (bài học vỡ lòng Cha dạy với hy vọng con mình lớn lên thành thầy thông thầy ký), con chạy ra đường ngồi trên trụ cây số trước nhà. Ngóng chờ cha mẹ cày thuê gặt mướn đồng xa mau về. Thương cha mẹ con mơ mình thành họa sĩ.

5.- Con thả giấc mơ lên bất cứ nơi nào có thể được. Với cục than trên tay, con biến mái nhà tranh thành tòa lâu đài, bữa cơm độn bắp khoai thành cao lương mỹ vị, chiếc áo lành cho Cha, chiếc nón mới cho Mẹ, tán đường cho các em, những giọt nước miếng thèm thuồng thành những que kem… Con sung sướng thấy mình là ông Tiên… trong mơ.

6.- Con vẽ hoài, vẽ hoài những giấc mơ. Những giấc mơ không xa đời thực. Đầu đã bạc nhưng những giấc mơ của con chưa hề thành hiện thực. Nên con cứ mơ hoài mơ hoài những giấc mơ… (LKT)
 
Trần Thị Nguyệt Mai
Valentine’s Day 2025
 
Tham khảo:
(1)  Lê Ký Thương – Tranh và Cóc
(2)  Trò chuyện với nhà văn Lê Ký Thương
(3)  Lê Ký Thương: “Tình bằng duyên nợ cái văn chương!”
(4)  Lời bài hát Như một lời chia tay – Trịnh Công Sơn.
 
lkt 1
Lê Ký Thương do Đỗ Hồng Ngọc vẽ (02.08.2003). 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.
“Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. “Gà tức nhau vì tiếng gáy”: Tính ganh đua, đố kỵ, không chịu kém người khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế ỷ lại, bắt nạt người khác. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Khuyên bản thân có bản lãnh thì ra ngoài xã hội, anh chị em trong nhà nên đoàn kết, gắn bó với nhau cùng nghĩa tương tự như “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những người không có ý chí. “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém. “Lép bép như gà mổ tép”: Chê người ngồi lê mách lẻo. “Lờ đờ như gà ban hôm”: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Tuổi 18 có thực sự là ngưỡng cửa của trưởng thành? Không ai lớn lên giống ai, và hành trình trưởng thành cũng chẳng thể đo đếm bằng một con số. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cột mốc 18 tuổi – độ tuổi mà luật pháp nhiều nơi, bao gồm Hoa Kỳ, công nhận một cá nhân chính thức bước vào tuổi trưởng thành và phải chịu trách nhiệm hình sự như người lớn. Thế nhưng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.
Tình hình thế giới hình như đang rối lung tung, náo loạn như từ khi tổng thống Mỹ nhậm chức nhiệm kỳ II. Ông ở ngôi mới được hơn 100 ngày chút xíu, mà nhiều rắc rối quá, đối ngoại thì như mỗi ngày ông đưa ra những quyết định trừng phạt thế giới về kinh tế và thương mại bằng cách tăng thuế vào các hàng hóa của bất kỳ quốc gia nào nhập khẩu và Hoa Kỳ từ 10 đế 50% và hơn thế nữa.
Thông thường, sau một ngày dài bận rộn, ai cũng nghĩ rằng đến khi đặt lưng xuống giường thì cơ thể sẽ mệt mỏi rã rời. Thế nhưng đôi khi, điều ngược lại lại xảy ra: thay vì cảm thấy mệt và buồn ngủ, chúng ta lại bất ngờ cảm thấy tỉnh như sáo, tràn đầy năng lượng, trằn trọc mãi chẳng thể nào chợp mắt.
Bộ đồ lòng dĩ nhiên gồm có…lòng. Nhưng lòng lại chia ra nhiều loại: lòng non, phèo, lòng già, khố linh. Khố linh là phần cuối của lòng già, ăn rất giòn, béo vì có lớp mỡ bên trong. Đó là điểm cộng của khố linh. Điểm trừ là khố linh rất hôi, có lẽ đây là lý do có chữ “khố” nằm vùng ở đây. Bàn ngang một chút: lòng còn chỉ “lòng dạ”, một từ không dính dáng chi tới chuyện ngon hay dở. Nghĩa bóng của “lòng dạ” chỉ liên quan tới con người, còn bò heo gà thì chỉ có một nghĩa. Ngoài lòng, bộ đồ lòng còn bao gồm tim, gan, bao tử, dồi trường. Dồi trường chỉ có ở heo nái. Tùy theo tuổi heo, dồi trường to hay nhỏ. Loại ngon nhất là dồi trường của heo nái đẻ hai hoặc ba lứa. Nhưng ít thực khách biết chuyện này nên cứ đòi dồi trường to, vừa đắt vừa không ngon.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.