Hôm nay,  

Những Cô Học Trò Và Đôi Điều Khó Nói

05/07/202400:00:00(Xem: 2986)

Trước giờ thi, một cô học trò láu táu, “Thầy bao nhiêu tuổi hả thày?” Câu hỏi từ cặp môi đỏ chót và cái nháy mắt từ cặp lông mi lướt thướt làm cả lớp cười ồ. Hồi ấy tôi vừa mới ba mươi, và tôi là ông thầy giáo bị hỏi câu ấy ngay trong lớp học, cái lớp học có quá nửa số học sinh là nữ, và tôi bị hỏi khi đang giúp học trò ôn bài thi cuối khóa.

Quá bất ngờ, ông thầy sựng lại một giây, rồi thong thả trả lời, “Cái này đâu có trong đề thi.”

“Em hỏi là tại vì hồi đêm em nằm chiêm bao thấy thày,” cặp môi cong chậm rãi giải thích. Cả lớp chăm chú lắng nghe. Cô học trò gật gù như chờ cho mọi người theo kịp rồi mới tiếp, “Vì vậy em cần biết tuổi thày để mua số đề.”

Lớp học vỡ toang tiếng cười. Cả lớp xúm vào hùa theo. Những cái miệng lao xao. “Thầy làm gì trong giấc mơ của chị Trang vậy, thày?”, Trang là cô học trò mi cong, môi đỏ ấy. “Đúng rồi, cho số để tụi em mua ké đi thầy.” “Thầy mấy tuổi rồi vậy, thầy?” “Nói thiệt đi thầy, thầy bao nhiêu tuổi…” “Cho số đi, nếu trúng em chia cho thày một nửa.” Học trò đùa giỡn muốn vỡ tung lớp học. Một người còn nhắc lại cái lần xe ông t thầy chết máy, phải nhờ học trò câu bình, và hứa, “Trúng số, em mua cho thầy chiếc xe Lexus, để thày khỏi lo mùa đông xe chết máy.”

Ông thầy lúng túng, cố gỡ rối, “Được rồi, được rồi… Bây giờ lo chuyện thi rồi sẽ tính sau.” Ngay lúc ấy thì nhân viên coi thi vào tới. Cơn đùa giỡn lắng vội xuống như thủy triều rút.

Và ông thầy thoát nạn.

Dạo ấy tôi dạy hai lớp vừa Anh ngữ cho người mới tới định cư, vừa Quốc Tịch. Một lớp đủ các sắc dân, lớp kia toàn người Việt. Hôm ấy là ngày thi của lớp người Việt. Gần ba chục học sinh đủ mọi lứa tuổi hồi hộp chờ nhận đề thi. Để giúp đỡ di dân yếu tiếng Anh, sở Di Trú đổi từ thi vấn đáp sang thi viết. Cuối khóa học, nhân viên di trú đem đề thi đến tận lớp học cho học sinh làm bài và cho biết kết quả ngay tại chỗ. Tôi nghĩ thi quốc tịch ở Canada là thứ thi cử dễ nhất thế giới. Hai mươi câu hỏi. Làm đúng sáu mươi phần trăm là đậu. Nghĩa là không được sai quá bốn câu. Khóa học có sáu buổi. Buổi học đầu, đích thân thày giáo làm hồ sơ và nhận tiền học phí để nộp cho sở Giáo Dục. Lệ phí mỗi khóa học là mười đồng tiền Nữ Hoàng. Công việc đơn giản. Chỉ cần thủ sẵn một ít tiền lẻ để thối lại cho học sinh. Sau sáu buổi của khoá học ấy, thày giáo biết mặt, biết tên tất cả học sinh, nhớ đến cả giọng nói và cách nói chuyện của từng người.

Trừ một người.

Ấy là một cô học trò không bao giờ mở miệng. Liên tiếp sáu tuần lễ, và nếu kể tới hôm ấy thì đã là bảy, chưa bao giờ cô hé môi nói ra một lời. Những móng tay không sơn phết, khuôn mặt không trang điểm hoặc trang điểm rất khéo khiến ông thày không thể nhận ra. Nụ cười buồn và mắt nhìn xa vắng. Chỉ bấy nhiêu thôi. Ngay cả những lúc lớp học xôn xao đùa giỡn, cô cũng vẫn nhìn xa xăm. Tia nhìn xuyên qua ông thày, xuyên qua tấm bảng đen, xuyên qua vách tường trắng, luồn qua những cành phong xanh lá trong sân trường, lượn cùng những đám mây mùa hạ trên cao, và tan biến vào một nơi xa, rất xa, tới nửa vòng trái đất. Chắc đây là một thiếu nữ có tâm sự buồn. Một người xác nơi này nhưng hồn còn lay lắt ở quê nhà. Ông thày đoán vậy và để mặc cho cô học trò xa vắng.

Người ngồi bên cạnh cô học trò xa vắng ấy - tức là cô học trò mi cong, môi đỏ, hay đùa nghịch nhất lớp - khi học về các cấp chính quyền Canada, đã than thở, “Thày, mắc mớ chi mà Canada nhiều đảng quá trời, em nhớ hỏng nổi.”

Ông thầy liếc cô gái thầm lặng một cái rồi nhìn qua người vừa đặt câu hỏi, chậm rãi cái giọng trầm trầm, “Có năm đảng liên bang, ba đảng ở tỉnh bang, đâu có nhiều.”

Cô môi đỏ, mi cong không đồng ý, “Phải như chỉ có một đảng như Việt Nam mình thì khỏe há, thầy?”

Cả lớp rộn tiếng cười. Ông thầy cũng buồn cười và không thể không đồng ý rằng nhiều đảng thì dân chủ thật nhưng khó nhớ tên chủ tịch đảng – vì xứ đa văn hóa nên chẳng những có tên tiếng Anh, tiếng Pháp, mà còn cả tên tiếng Hòa Lan, tiếng Ấn Độ - thêm vào đó là phải nhớ đường lối của từng đảng một. Trước khi quay lại với bảng đen ông thày liếc cô gái thầm lặng thêm một lần. Trên khuôn mặt trái soan ấy, vẫn một nửa nụ cười u uẩn và hai con mắt ngó xa xăm.

Buổi học cuối. Thi Quốc tịch, một thứ thi tốt nghiệp sau khóa học. Không khí nghiêm trọng hẳn lên. Có quốc tịch là yên tâm. Trở thành công dân một xứ sở văn minh và tôn trọng nhân quyền là điều mọi người mơ ước. Nhân viên di trú đến coi thi, chấm bài và trao cho ông thầy bản kết quả thi.

Bà nhân viên nhà nước vừa quay lưng, học trò nhốn nháo ngay lập tức. Bao nhiêu con mắt lo lắng nhìn thày. Nhìn kết quả, ông thầy thở phào và bằng giọng nói thảnh thơi, cho biết cả lớp mình đậu hết. Học trò hét lên và nhào đến mừng rỡ ôm ông thầy. Thầy loay hoay, lúng túng, tay chân rụng rời, thân người mềm nhũn. Những đụng chạm hiếm có giữa những người Việt Nam khác phái đang ập lên người ông thầy. Mùi tóc, mùi mồ hôi, mùi nước hoa, mùi da thịt, mùi dầu gió xanh và cả mùi thuốc lá làm ông thầy choáng cả người. Lúc tìm được một khoảng trống để thở ông thầy bắt gặp bóng dáng cô học trò thầm lặng. Vẫn tóc thả xuôi vai, mắt nhìn xa xăm và nét buồn u uất. Ông thày chợt nhận ra tất cả học trò đều ôm thầy một cái để chung vui, ngoại trừ cô học trò trầm lặng này dù cô cũng thi đậu như mọi người. Lòng thầy giáo chợt nao nao. Trí óc vẽ vời thấp thoáng một chuyện tình đơn phương tội nghiệp. Hôm nay là ngày cuối nếu học trò không nói ra, sẽ chả bao giờ còn cơ hội cho học trò nói nữa đâu. Ông thầy thầm nghĩ.


“Thi đậu rồi, uýnh lộn với chồng có sao hông thầy?” Giữa tiếng cười nói lao xao, giọng cô học trò mi cong, môi đỏ lanh lảnh.

“Không nên,” thầy giáo nói vội. “Chưa tuyên thệ quốc tịch, chưa là công dân, nguy hiểm lắm. Tội hình sự, coi chừng bị trục xuất…”

“Lỡ mình hỏng muốn mà thằng chả cứ kiếm chuyện thì phải làm sao, hả thầy?”

Tiếng cười rộn ràng lớp học. Cô – hay bà - học trò này là người son phấn đặm nét nhất lớp học và cũng là người khi học về địa lý, nhìn vào bản đồ đã cằn nhằn với đầy ẩn ý, “Bản đồ phẳng lì thế này làm sao biết chỗ nào là núi đồi, chỗ nào là sông rạch để mà mò chớ!”

Nhưng cũng nhờ những câu nói đùa như thế mà lớp học bớt khô khan.

Vậy là xong một khóa học. Vài tuần nữa sẽ có lễ tuyên thệ. Ông thầy nhìn một lượt những khuôn mặt Việt Nam thân thuộc. Những di dân này sẽ có cho mình một tấm thẻ quốc tịch và những quyền lợi công dân của một đất nước tự do đúng nghĩa. Sau những lời cảm ơn, những cái bắt tay thân tình, những vòng ôm hiếm hoi, mọi người lũ lượt ra về. Cơn vui lắng xuống như thủy triều rút cạn. Cô học trò còn lại đó. Cô nhìn thầy giáo bằng đôi mắt u uẩn, như có điều gì không thể nói ra nhưng cũng không thể giấu mãi trong lòng.

Bước xuống chỗ cô ngồi, thầy giáo ngần ngừ gợi ý, “Thi đậu rồi mừng há?”

Cô học trò nhỏ nhẹ, “Dạ.” Ấy là câu nói đầu tiên thốt ra từ cặp môi mỏng màu hồng. Suốt bảy tuần lễ đây là lần đầu tiên ông thầy nghe được giọng nói của cô học trò.

“Cô có hỏi gì không?” ông thày nhắc nhắc.

Cô học trò lại “Dạ” rồi ngừng một lúc mới nói tiếp, “Thầy, bữa trước lúc mới nhập học đó...” Cô lại ngần ngừ. Cô học trò bối rối. Ông thầy cũng bối rối theo. Trong lòng xốn xang, ông thầy chuẩn bị thật kỹ để nghe một câu tỏ tình. Nhất định phải là câu tỏ tình. Cứ nhìn ánh mắt thì biết. Từ hồi nhận dạy lớp quốc tịch đã hai lần ông thầy được (hay bị) học trò tỏ tình. Một cô học trò từ Iraq chờ mọi người về hết mới lên bảng viết một hàng chữ Ả Rập lẫn một câu tiếng Anh. Thầy giáo chỉ đọc được câu tiếng Anh vì nó đơn giản: “I love you, Teacher.” Lần khác là cô học trò xứ Nam Tư cũ. Cũng I love you, nhưng thay vì ghi “Teacher” thì ghi tên của ông thầy. Lần ấy ông thầy đã hoảng hốt nhắc học trò ra về cho nhanh. Còn lại một mình, đứng ngẩn ngơ nhìn nét phấn trắng ngoằn ngoèo trên nền bảng đen, lòng bâng khuâng như cơn gió lạc vào lớp học, không tìm được lối ra.

Vì vậy hôm nay ông thầy đoán được câu cô học trò sắp nói. Chắc cô sẽ nói bằng tiếng Việt. Lâu lắm không nghe được câu tỏ tình bằng tiếng Việt. Nhưng vì là thiếu nữ Việt Nam chắc cô sẽ không nói thẳng ra điều cô đang ôm ấp trong lòng. Có thể cô sẽ xa xôi, bóng gió, nói xa nói gần, nói bằng ánh mắt, nói bằng nụ cười, nói bằng cái mím môi, nói bằng đôi mi rung rất nhẹ… để làm lòng ông thầy mềm xuống như sợi bún (bún tươi ở Việt Nam chứ không phải bún khô cứng như kẽm gai, nhập cảng từ Thái Lan hay Hồng Kông bán đầy rẫy ở phố Tàu Toronto!) Học trò tỏ tình thế nào thày giáo cũng chịu hết. Bao nhiêu năm lận đận xứ người, tình yêu hiếm hoi, còn lòng nào mà bắt bẻ những chuyện nhỏ nhen. Em có quyền cải lương. Cỡ nào thày cũng chịu. Miễn sao câu nói ấy diễn tả trọn vẹn những điều em gói ghém trong lòng suốt bảy tuần lễ nay là được.

Nghĩ vậy nhưng ông thầy vẫn cố nhớ xem mình có giảng sai chỗ nào không, chẳng hạn nhớ lầm tên ông chủ tịch đảng cầm quyền thành bà chủ tịch đảng đối lập, nhưng ông thày biết chắc là mình không sai chỗ nào hết. Thế nên ông thầy khuyến khích cô học trò, “Có gì muốn hỏi phải không? Thi đậu rồi, thành công dân Canada rồi vui há. Bây giờ khỏi lo quên tên dòng sông dài nhất Canada hoặc tên ông chủ tịch đảng cầm quyền nữa nhỉ.”

“Thày mau quên quá hà!” cô học trò trách móc với nụ cười. Rồi cả hai cùng im lặng. Mãi cô mới nói được một câu, thật nhỏ, như một lời thì thầm phát ra từ một góc kẹt nào đó của trái tim đang lỡ nhịp, “Bữa hôm nhập học...”

“Nhập học... làm sao?” ông thầy nôn nóng.

Cô học trò chớp mắt, nhìn xuống nền nhà, rên rỉ, “Ui da, sao khó nói quá hà!”

“Thì cứ nói, thầy y không la đâu,” ông thày giáo khuyến khích.

“Bữa hôm mới nhập học đó, lúc đóng tiền học phí đó, em đưa thầy tờ hai chục...”

“Rồi sao nữa?”

Cô gái thở hắt ra, “Thầy quên thối lại em mười đồng.”

Ông thầy giật bắn người. Chuyện ấy có hay không, lâu rồi làm sao mà ông thày nhớ được. Nhưng cô học trò nhớ lâu vậy chắc là đúng. Khổ một điều là hôm ấy thầy giáo không đem theo tiền nên không có mười đồng để trả cho cô học trò.

Lớp học ấy và bao nhiêu lớp học khác đã qua. Ấy là một thời tôi đã đong đếm được vô số kỷ niệm đẹp. Những lớp học ở xứ người đầy ắp học trò Việt Nam đủ mọi lứa tuổi nhưng vẫn giữ tình thày trò thắm thiết, và dẫu chỉ là lớp học ESL và Quốc Tịch nhưng cũng đã cho tôi sống lại một thời ca dao xưa, rất xưa (dẫu đã ít nhiều lạc điệu) rằng “muốn con hay chữ thì yêu lấy thày”. Chỉ tiếc là cho tới bây giờ tôi vẫn thiếu nợ cô học trò trầm lặng mười đồng tiền Canada. Dù những khóa học sau đó tôi luôn thủ mười đồng trong túi chờ cô ghé qua để nhận lại, nhưng cô biến đi như cánh chim lao vào cơn bão.

Và thỉnh thoảng tôi lại băn khoăn không biết mình đã làm chuyện gì trong giấc chiêm bao của cô học trò mi cong, môi đỏ, người đã đòi tôi khai tuổi và than phiền rằng bản đồ Canada phẳng lì, nhìn không biết đâu là núi non, sông rạch để mò cho chính xác.
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.