Hôm nay,  

Tưởng niệm Thi sĩ Cung Trầm Tưởng: Bặt một Cung Trầm

13/10/202211:12:00(Xem: 3029)

Tưởng niệm

Pic 1. Cung Tram Tuong
Chân dung Thi sĩ Cung Trầm Tưởng [1932-2022]



Được tin Thi Sĩ Cung Trầm Tưởng mất, tôi bỗng chợt thấy như mình vừa mất một cái gì thật quý báu, như... "Chực rớt cái gì dường thủy tinh..." (thơ Cung Trầm Tưởng) . Có một cái gì đang lóng lánh chợt tắt ngấm vào không gian. Thật vậy, chúng ta vừa mất đi một nhà thơ lớn, một vóc dáng thơ thật thân quen trong thế giới thơ ca mà tôi và nhiều người hằng yêu mến.

 

Cung Trầm Tưởng cuối cùng rồi cũng giã từ nỗi buồn phố sá. Thôi không còn nghe tiếng bi ai, tiếng guốc gõ nhịp đêm hạ, tiếng xe lăn ngoài tha ma mà tìm về ánh lửa ấm cúng chập chờn nào đó ở phía bên kia bờ bỉ ngạn. Mơ hồ đâu đó là tiếng rạn nứt trong như pha lê của một đêm say, tôi cảm được phút chia biệt phải đến, đành nói câu giã từ, ngừng giây bịn rịn. Ừ, ông phải lên đường, phải rời tay rồi, sương thu có rơi, heo may có lạnh, thì ánh đèn của gã dẫn đường cũng chấp chới đưa ông ra khỏi lòng phố thị để đi về nẻo ngoại ô, phía bên kia trời rồi.

Xin thắp nén hương lòng tiễn ông đi về miền phương ngoại thật thong dong.

 

Mùa thu Paris đã im hơi, rượu đỏ đã đổ xuống, người em mắt nâu giờ xa ngái, trái sầu cũng rụng theo chiếc lá công viên ngoài kia theo tác giả bài thơ "Mùa thu Paris" bất hủ. Phạm Duy đã đưa "Mùa Thu Paris" và "Tương Phản- Bên Ni, Bên Nớ" của Cung Trầm Tưởng vào lòng muôn triệu người Việt, giờ ông đã có dịp gặp lại người nhả tơ lòng mình lên khuôn nhạc của ông, ở một cõi tịnh xa xôi nào đó.

 

Tình cờ làm sao, ông lại ra đi vào mùa thu, để lá vàng cùng ào ạt đổ xuống tiễn chân ông. Tôi nhớ những đêm mưa buồn nằm nghe Khánh Ly thổn thức bài "Bên Ni, Bên Nớ" mà thấy lòng mình chùng xuống hoang liêu đến vô cùng. Hình ảnh, âm thanh, ngôn từ, ngữ nghĩa của bài thơ tự do khó phổ này đã được Phạm Duy phổ nhạc, tôi thấy phải nói là hay tuyệt vời. Giọng hát Khánh Ly thật cao vút trong âm thanh của dàn nhạc thâu âm trước 1975 ngày ấy, đã thăng hoa được toàn vẹn bài thơ phổ nhạc rất sâu sắc và khó hát này. Có lẽ ít người nghe, biết bài hát này như bài "Mùa thu Paris", nhưng với tôi đây là bài hát gây cho tôi nhiều ấn tượng.

 

Tương Phản

 

Đêm chớm, ngày tàn

Theo tiếng xe lăn về viễn phố

Em ơi!

Sương rơi

Ngoài song đêm hạ

Ôi buồn phố xá...

Hoang liêu về chết tha ma

Tiếng chân gõ guốc: người xa vắng người

Em có nghe dồn giã

Bước ai vất vả

Bóng ai chập chờn

Hồn ai cô đơn

Say sưa tìm về ấm cúng

Em có nghe bi ai

Tình ai ấp úng

Thương ai lạc loài

Ăn mày sáng lạn một ngày mai

Đêm nay say đất lở

Em có nghe rạn vỡ

Ra muôn mảnh ly rơi

Pha lê vạn chuỗi cười

Bên nớ dạ thành khoe tráng lệ

Trơ trẽn giai nhân phô loã thể

Bên ni phố vãng lòng ngoại ô

Em có nghe mơ hồ

Bước ai thao thức

Gõ nhịp hẹn hò

In dài ngõ cụt

Bóng ai giang hồ

Bên nớ bên ni đêm lạnh cả

Lạnh đêm mà chẳng lạnh vuông phòng

Em ơi bên trong

Dù chia ly đôi phút

Đồng mang nhớ đèo mong

Hai tâm hồn giam kín

Bốn mắt xanh bịn rịn

Anh ngồi làm thơ

Anh ngồi bấm đốt con thơ ra đời

Bên ngoài liếp ngỏ sương rơi

Bên trong kín gió ấm ơi là tình!...

 

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát "Bên ni, Bên nớ."

 

Nói về mình, Cung Trầm Tưởng có lần đã tâm sự, "Tôi sinh ra để làm thơ, mà là thơ buồn, nên tôi chọn tên mình là "Cung Trầm Tưởng". Ông dùng nhiều thể thơ khác nhau để làm thơ nhưng có lẽ nhiều nhất là lục bát. Những bài thơ ông làm sau 1975, về quê hương, chiến tranh và tù đày trong thời gian 10 năm tù cải tạo, phần lớn là lục bát. Tuy nhiên những bài thơ khiến ông nổi tiếng lại những bài thơ tự do hay 4, 5, 7 chữ trong tập "Tình ca" mà ông làm trước 1975. Trong thơ tình ông tụng ca thiên chức của người nữ, trân quý, âu yếm, dịu ngọt và cảm thông.

 

Thai Nghén

 

Da em thai nghén trái ươm xanh

Xót vị me chua đến ngái mình.

Qua chăm chút mớm giâm mầm mạ

Chực rớt cái gì dường thủy tinh.

Trái hút nhựa san cành uốn trĩu

Lay e có thể sẩy nhân giòn.

Dẫu ân cần dựng công trình đỡ,

Sợ đổ dập vùi hồn nhú non.

Anh cúi hôn tay dài nõn ngón,

Mắt hiền diệu ẩn ánh tà hôn.

Anh ôm vóc dáng em mềm lụa,

Gió thổi bay lên tóc ải bồng.

Anh giấu em trong cánh tay ngăn,

Rào em cách biệt một không gian.

Quanh em chỉ có hồ êm lặng,

Không thác và không nước lũ ngàn.

Mắt anh đèn bão thắp đêm thâu.

Em ạ, ngực đây em gối đầu.

Vai đây chỗ tựa hồn nao núng

Rồi lặng lẽ chờ phút trở đau.

Cứ ngủ đi em yên thấm mộng.

Đắp trên bụng mẹ yếu và thiêng

Tình anh che chở làm mền ấm.

Mang nặng đẻ đau ôi ! đức mẹ hiền.

Ấm ủ trong em huyền diệu lý

Âm dương giao hưởng, máu chan hoà.

Nay nằm ngậm rễ rau liền ruột,

Mai mở miệng chào tiếng khóc oa.

Mai nõn nà tươi phơi ánh sáng

Thiên nhiên kiến trúc một mô hình,

Một kỳ tích viết lên da dẻ

Sức sống bừng bừng nét hiển vinh.

— 1951

 

Là một người từng học trường Tây và du học tại Pháp, ông đọc thơ Charles Baudelaire và cảm phục người nữ Baudelairien để

cảm tác mấy vần tụng ca như sau:

 

Em ướp trầm hương ngan ngát thánh

Ngồi trong đời cũng ngự ngôi trên

Em gần gũi cũng thiêng khôn kể

Dạy dỗ thi ca ý niệm đền

Bát quái thu trong lồng ngực nõn

Ngũ hành tụ lại bàn tay thon

Rốn em trái đất bày phương trận

Vũ trụ trồng ươm mô thức tròn

Là khởi sự cùng là kết thúc,

Đầu nguồn mạch nước, cuối dòng sông,

Em sinh sôi những áng cầu vồng

Trước Sách Ước đến sau cùng Lịch Sử.

 

Thơ tù ca nói về tù đày, chiến tranh và thân phận con người, ông viết rất nhiều và may mắn được bạn tù yêu thơ ông đã bảo mật, thuộc lòng hay giấu và mang giúp thơ ông ra hải ngoại. Nếu không, công an phát giác, ông chỉ còn là một nắm xương khô nằm ở một nơi đèo heo hút gió nào đó của Hoàng Liên Sơn.

 

Bóng mẹ chiều thu

– Kính dâng Mẹ

 

Mẹ gầy guộc đến thăm con hấp tấp,

Quảy gánh về chiều sập ở non Tây.

Mưa gió quất lưng tre cong phần phật,

Bóng mẹ mờ lần khuất giữa mù mây.

Đất lầy lội, đường quê trơn khấp khểnh,

Mẹ long đong lận đận dáng lưng gù.

Mảnh trời xám kẽm gai rào bấu nát,

Mẹ đi rồi xao xác cả trời thu.

Mẹ là mẹ chú em nào hình sự ?

Dáng lưng gù làm nhớ đến mẹ tôi,

Mẹ nẻo xa mưa nắng ắt bồi hồi,

Ai đỡ mẹ đi nghiêng sầu goá bụa ?

Mưa gió quất lưng tre còng vất vả,

Vóc mai kia na ná nét hao mòn

Của mẹ ruột quằn đau cho tiếng khóc

Đến cuối đời lại chong bóng chờ con.

 

Con của mẹ giờ nằm trong ngục thất,

Vận nước nghèo lại gặp phải thời xui,

Bao thanh xuân hảo vọng bị chôn vùi,

Đồng lúa mới chết non từng nhánh mạ

 

Trời Nam ấy huyên rơi vàng mấy lá ?

Chiều nơi đây trời giá phủ sương đầy.

Xin thử hỏi lòng con như tấc cỏ

Sao báo đền tình mẹ ngất toà mây.

 

Con xin hứa, lại một lần nữa hứa

Nợ ơn đời sẽ trả trọn nay mai,

Đỡ mẹ đi thư thái nốt đường dài

Để có một lần vì con mẹ ngẩng mặt.

— Trại tù Hoà Bình, 1978

 

Trong chặng đường dài 90 năm tại thế, ông để lại rất nhiều sáng tác nhất là sau năm 1975. Ông đã gom tất cả lại trong cuốn "Một hành trình thơ 1948-2018", gồm 7 thi tập. Bạn đọc yêu thơ ông có thể tìm đọc cuốn sách này trên trang web của Việt Tide.

 

– Trịnh Thanh Thủy

 

Tiểu sử ngắn


Cung Trầm Tưởng, tên thật là Cung Thức Cần, sinh tại Hà Nội. (1932-2022) Năm 15 tuổi bắt đầu làm thơ, và có tập thơ đầu tay tên là Sóng đầu dòng. Học Trung học tại trường Chasseloup Laubat. Du học tại Pháp, Trường Kỹ sư không quân ở Salon-de-Provence. Tốt nghiệp trở về nước làm trong ngành không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, với cấp bậc cuối cùng là Trung Tá. Dưới chế độ cộng sản, ông bị bắt đưa đi cải tạo 10 năm trong 8 trại giam và thả về với thêm 3 năm quản chế. Định cư tại Hoa Kỳ, tốt nghiệp Cao Học Khí Tượng tại Saint Louis University, Hoa Kỳ và Quản Trị An Ninh Quốc GiaVà Tài Nguyên Quốc Phòng Hoa Kỳ- hậu đại học.

Hai bài thơ của ông là "Mùa thu Paris" và "Vô đề" (thơ trường thiên) xuất hiện trong tuyển tập Đất đứng của nhóm Quan Điểm (gồm Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng) đã làm người đọc chú ý. Ông chủ trương tờ Văn nghệ mới và cộng tác thường xuyên cho các tạp chí Sáng tạo, Hiện đại, Nghệ thuật, Văn, Khởi hành...

Phạm Duy đã phổ nhạc một số bài thơ của ông, đó là những bài "Mùa thu Paris", "Chưa bao giờ buồn thế" (Phạm Duy gộp lại và lấy tên là "Tiễn em"), "Bên ni bên nớ", "Khoác kín" (Phạm Duy lấy tên "Chiều đông"), "Kiếp sau", "Về đây"... Tổng cộng trong 13 bài thơ trong tập Tình ca của ông thì 6 bài Phạm Duy chọn phổ nhạc.

Tác phẩm của Cung Trầm Tưởng đã in:

  • Tình ca (Sài Gòn: Công đàn, 1959)
  • Lục bát Cung Trầm Tưởng (Sài Gòn: Con đuông, 1970)
  • Lời viết hai tay thơ tù cải tạo (Bonn: Imn, 1994)
  • Bài ca níu quan tài thơ tù cải tạo (tác giả tự xuất bản, Minnesota, Hoa Kỳ, 2001)
  • Một hành trình thơ (Falls Church, Virginia: Tiếng Quê Hương, 2012)

 

Hình ảnh:

Pic 2 CTT thời trẻ

Cung Trầm Tưởng ở Luxembourg thời sáng tác bài thơ "Mùa thu Paris,1954.

Pic 3 hình kỷ niệm .jpg sn

Hình kỷ niệm cùng bằng hữu. Hàng đứng từ trái: NAG Nguyễn Văn Liêm, NAG Nick Út, Trịnh Thanh Thủy, NB Ông Như Ngọc, NAG Thái Đắc Nhã; Hàng ngồi: MC Trần Quốc Bảo, TS Cung Trầm Tưởng, Khách mời, NB Vũ Phương Dung. (Sept. 12, 2014).

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.
Nhận được tin buồn nhà thơ Phan Xuân Sinh sau một cơn bạo bệnh, nhập viện vì bệnh tim mạch, hôn mê sau 10 ngày vô phương cứu chữa đã qua đời tại Texas ngày 28/2/2024. Thọ 76 tuổi...
Từ hồi trẻ, tôi đã có thói quen là những ngày giáp Tết thì bắt đầu chọn một vài bài nhạc xuân để nghe; và trong những ngày đầu năm thì sẽ đọc một cuốn sách. Thói quen “khai sách đầu xuân” có thêm một chi tiết khi tuổi quá độ “ngũ thập nhi tri thiên mệnh”: đọc một cuốn sách có chủ đề về Phật Giáo. Trong năm Giáp Thìn này, tôi chọn cuốn “Từ Mặc Chiếu Đến Như Huyễn” của một tác giả cũng tuổi con rồng: cư sĩ Nguyên Giác, cũng là nhà báo Phan Tấn Hải. Giới thiệu “tác giả, tác phẩm” dài dòng như vậy, nhưng đối với tôi, người viết đơn giản chỉ là anh Hải, một người anh thân thiết, đã từng có một thời ngồi gõ bàn phím chung trong tòa soạn Việt Báo ở phố Moran. Đọc sách của anh Hải, tôi cũng không dám “điểm sách” hay “phê bình sách”, vì có thể sẽ bị anh phán rằng “… viết như cậu thì chỉ… làm phí cây rừng thôi!” Bài viết này chỉ ghi lại một vài niềm hứng khởi khi được tặng sách, khi đọc qua cuốn sách mà cái tựa cũng đã chạm sâu thẳm vào những điều bản thân đang chiêm nghiệm.
Chúng ta thường được nghe nói, rằng mọi người đều bình đẳng trước Thượng Đế. Tuy nhiên, Thượng đế thì không ai thấy, nhưng có một thứ còn đáng sợ hơn nhân vật cổ sử đó (nếu thật sự là có Thượng Đế): đó là những trận mưa bom. Người dân Ukraine và Palestine ý thức rất rõ, vì đó là chuyện hằng ngày của họ: mọi người đều bình đẳng khi đứng dưới mưa bom. Già, trẻ, nam, nữ, trí thức, nông dân, nhà thơ, họa sĩ… đều bình đẳng: khi bom rơi trúng là chết. Cuộc chiến giữa người Palestine muốn giữ đất và người Israel từ nơi xa tới nhận phần đất mới do quốc tế trao tặng từ đất Palestine đã kéo dài nhiều thập niên. Bây giờ căng thẳng mới nhất là ở Gaza, cuộc chiến đang tiếp diễn giữa nhóm Hamas, thành phần chủ trương bạo lực của dân Palestine, và quân Israel. Trong những người chết vì bom Israel, có những người hiền lành nhất, đó là trẻ em và phụ nữ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.