Hôm nay,  

Câu Chuyện Thất Nghiệp

15/06/201000:00:00(Xem: 9913)

Câu Chuyện Thất Nghiệp
Vũ Linh

...bốn trăm ngàn người có việc do Nhà Nước công bố chỉ là số… ảo.
Tháng Hai năm 2009, vừa đắc cử không bao lâu, tân TT Obama đưa ra ngay một chương trình kích cầu kinh tế vĩ đại gần 800 tỷ đô. Ông quảng bá đó là chương trình khẩn thiết, bắt buộc phải có để cứu nguy tình trạng kinh tế đang đi vào giai đoạn suy trầm lâu dài, đưa đến thất nghiệp nặng nề. Lúc đó tỷ lệ thất nghiệp đang ở mức 6%. Ông cảnh giác nếu không có biện pháp quy mô kích cầu kinh tế thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ có thể lên đến mức nguy kịch 8% trong vòng vài tháng tới.
Khối Cộng Hòa chống đối mạnh mẽ. Theo họ thì kế hoạch kích cầu trước hết là quá lớn, lớn hơn khả năng tài chánh của Nhà Nước Mỹ, và quan trọng hơn nữa, không có gì chứng minh kế hoạch có thể làm suy giảm tỷ lệ thất nghiệp vì thật ra là một chương trình có tính cách tái phân phối lợi tức lâu dài, kiểu như gia tăng trợ cấp xã hội cho những người lợi tức thấp, chứ không nhắm vào việc giải quyết nạn thất nghiệp. Nói cách khác, kế hoạch sẽ không giảm tỷ lệ thất nghiệp mà lại tốn kém quá mức. Nói kế hoạch này nhằm giúp kích động kinh tế, tạo công ăn việc làm ngay trong ngắn hạn hoàn toàn không đúng sự thật. Phe Cộng Hòa chỉ trích TT Obama đã dùng chuyện giải quyết nạn thất nghiệp làm bình phong để khỏa lấp ý đồ cải cách xã hội.
Dù vậy, quốc hội vẫn thông qua kế hoạch kích cầu kinh tế nhờ khối đa số Dân Chủ, mà không có được một phiếu nào của khối đối lập Cộng Hòa.
Những chuyện gì xẩy ra sau đó, phần lớn chúng ta theo dõi tin tức thời sự đều đã thấy.
Mặc dù kế hoạch kích cầu kinh tế được thông qua như TT Obama kêu gọi, nhưng tỷ lệ thất nghiệp chẳng những không giảm xuống dưới 6% như TT Obama hứa hẹn, cũng chẳng tăng lên 8% như ông đe dọa, mà vọt lên đến 10%. Giờ này đây, gần một năm rưỡi sau khi luật kích cầu kinh tế được ban hành, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ngoan cố đứng khựng gần mức 10% mà chẳng ai thấy triển vọng suy giảm trong tương lai gần.
Quả đúng như những lời chỉ trích của khối bảo thủ, kế hoạch đắt tiền này - cùng với các kế hoạch khổng lồ khác như cứu nguy ngân hàng, hãng bảo hiểm, hãng xe, và chương trình cải tổ y tế - đã tăng mức nợ của Nhà Nước lên đến mức vô tiền hoáng hậu là 13 ngàn tỷ, trong khi chẳng có tác dụng nào trên tỷ lệ thất nghiệp.
Sáng Thứ Sáu 4 tháng 6 vừa qua, TT Obama hoan hỷ ra thông báo khoe kế hoạch kích cầu đã có tác dụng cụ thể và cuộc phục hồi kinh tế đã bắt đầu với thống kê cho thấy trong tháng Năm, hơn 430.000 việc làm mới đã được tạo ra, một con số lớn nhất trong một thập niên qua. Một tin mừng lớn cho chúng ta" Chúng ta sắp có việc làm lại" Kinh tế đã thực sự bắt đầu phục hồi" Mọi người đều có quyền vui mừng và tri ơn công trạng của TT Obama"
Sự thật có hơi khác.
Thị trường chứng khoán Dow Jones ở Nữu Ước đón nhận tin này bằng cách… rớt hơn 320 điểm ngay trong ngày Thứ Sáu này, một kỷ lục chưa thấy từ cuối năm 2008. Qua Thứ Hai, thị trường chứng khoán Á Châu và Âu Châu sụp đổ theo. Tại sao phản ứng lạ vậy"
TT Obama có thể hân hoan quảng bá tin “kinh tế đã phục hồi” cho bàn dân thiên hạ nhưng không qua mặt được các chuyên gia kinh tế tài chánh, cũng như các nhà đầu tư. Họ mau mắn nhìn thấy sự thật sau các con số bóng bẩy của Nhà Nước đưa ra.
Trong số hơn 430.000 việc làm mới ra đời, thì đã có hơn 390.000 việc là đi thu thập dữ liệu kiểm kê dân số, tức là những việc làm nhất thời ngắn hạn, trong khi số việc làm lâu dài của tư doanh, có tác dụng thực sự trên năng xuất kinh tế thì chỉ có hơn 40.000, một con số không mảy may ý nghĩa gì so với gần mười lăm triệu dân Mỹ đang thất nghiệp.
Chẳng những hầu hết chỉ là con số công chức đi thu thập dữ kiện, tức là một loại việc làm chẳng có năng suất gì vào việc phát triển kinh tế, mà hơn vậy nữa, chỉ là một gánh nặng phụ trội cho công quỹ.
Ở đây lý luận kinh tế rất giản dị: tăng việc làm có năng suất trong khu vực tư sẽ có tác dụng tăng trưởng kinh tế, trong khi tăng việc làm thu thập dữ kiện trong guồng máy thư lại Nhà Nước thì chỉ có thể tăng gánh nợ của Nhà Nước thôi. Nhìn vào những gì đang xẩy ra tại Hy Lạp, hay ngay cả tại tiểu bang Cali, các nhà đầu tư và chuyên gia kinh tế tài chánh chỉ có thể lo sợ hơn cho tương lai nước Mỹ.
Mặt khác, con số 40.000 việc làm thật sự mới được tạo ra lại quá ít, chứng tỏ rõ ràng kinh tế chưa phục hồi gì hết. Theo các chuyên gia kinh tế, hiện nay nước Mỹ có gần 15 triệu người thất nghiệp. Mỗi tháng lại có thêm khoảng một trăm ngàn thanh niên thanh nữ đến tuổi gia nhập thị trường việc làm. Muốn những người này có việc làm, trung bình mỗi tháng kinh tế Mỹ phải tạo ra 400.000 việc làm, và tiếp tục như vậy trong ít nhất ba năm liền. Nhìn vào cách tính này thì ta thấy rõ 40.000 việc làm mới được tạo ra trong tháng Năm chỉ là muối bỏ biển, chẳng những không phản ánh một sự phục hồi kinh tế như lời quảng bá của tổng thống, mà lại thể hiện rõ trì trệ kinh tế sẽ còn kéo dài khá lâu.


Và đó chính là lý do tại sao thị trường chứng khoán lại rớt thảm hại như vậy sau khi TT Obama loan tin có thêm hơn bốn trăm ngàn việc làm mới được tạo ra. Phép lạ Obama chỉ có trong mắt của các đệ tử của Đấng Tiên Tri thôi, không thuyết phục được các chuyên gia hay mấy tay tư bản Nữu Ước hay Luân Đôn hay Ba-Lê.
Đã vậy, ngay cả con số 390.000 người được thuê làm công chức nhất thời cũng là một con số cần được nhìn cho kỹ.
Theo một phúc trình của Tổng Thanh Tra (Inspector General) của chính phủ Mỹ, con số này quá lớn, lớn hơn nhu cầu thực sự. Cơ quan phụ trách việc kiểm kê dân số nhìn nhận là con số người thực sự cần thiết cho công tác này thấp hơn, và giải thích họ thu dụng nhiều người để sẵn sàng có người thay thế mỗi khi có người nghỉ việc. Họ gọi đó là một cách để tiết kiệm chi phí (cost-saving measure!)
Ở đây, ta thấy rõ cách làm việc của khu vực Nhà Nước trong chính quyền Obama. Trong một công ty tư nhân, khi nào có nhân viên nghỉ việc thì người ta mới đi tuyển dụng người thay thế. Trong việc kiểm tra dân số, Nhà Nước Obama thu nhận nhân sự thay thế trước khi có người nghỉ việc. Dĩ nhiên kết quả là ta thấy hàng loạt người được thu dụng, cho qua các khoá huấn luyện cẩn thận và được trả lương đàng hoàng để… không làm gì hết, hay làm đại khái, chỉ vì chưa cần đến họ.
Một chuyện lạ khác nữa. Đài truyền hình FOX phỏng vấn trực tiếp một nữ nhân viên đang được thuê làm nhân viên thu thập dữ kiện kiểm kê dân số. Bà này cho biết là bà đã được thu dụng, rồi được huấn luyện trong khoảng 40 tiếng rồi giao việc làm. Nhưng chỉ làm vài ngày là bà bị cho nghỉ việc, để rồi vài ngày sau lại được thu dụng lại, và được thống kê lại là người mới có việc.
Sự kiện này, nếu đúng sự thật, chứng minh quả đúng là quá nhiều nhân viên đã được tuyển dụng khiến cho họ phải nghỉ việc thường xuyên để nhường chỗ cho những người khác.
Đồng thời, sự kiện này cũng cho ta thấy con số hơn bốn trăm ngàn người có việc do Nhà Nước công bố chỉ là con số… ảo. Tình trạng của cái bà được phỏng vấn trên Fox được ghi vào thống kê là có “hai” người được tuyển dụng trong khi trên thực tế, chỉ có một người được tuyển dụng hai lần.
Những mánh khóe chính trị kiểu này nếu là do “Bắc Bộ Phủ” làm thì không có gì đáng ngạc nhiên, nhưng dưới chính quyền Obama, một người từng tranh cử với những chiêu bài “trong sạch và trong sáng”, thì quả là chuyện đáng nói.
Nói theo kiểu Mỹ: cũng vẫn chỉ là chính trị kiểu cũ rích, hứa hẹn một đàng làm một nẻo. Nói theo kiểu tổng thống Thiệu: đừng nghe những gì …
Nhìn vào thành quả tạo công ăn việc làm của TT Obama sau một năm rưỡi chấp chánh, người ta có thể khẳng định hoặc là TT Obama đã thất bại hoàn toàn, chẳng tạo được việc làm cho ai hết bất chấp những quảng bá cho kế hoạch kích cầu kinh tế, hoặc việc tạo công ăn việc làm không phải là ưu tiên hàng đầu của tổng thống bất kể những diễn văn và tuyên bố hô hào tạo công ăn việc làm.
Thật ra, nạn thất nghiệp chưa được giải quyết không phải vì TT Obama bất tài bất lực không biết giải quyết như thế nào, mà chỉ vì vấn đề tạo công ăn việc làm không phải là ưu tiên của TT Obama. Không phải vì ông không quan tâm đến dân tình. Nhưng chỉ vì ưu tư của ông nằm ở chỗ khác.
TT Obama là người có một viễn ảnh vĩ đại, muốn cải cách toàn diện chế độ xã hội Mỹ theo hướng cấp tiến thiên tả, dựa trên các nguyên tắc căn bản của khối này, tức là tái phân phối lợi tức, chia sẻ tổng sản phẩm cả nước cũng như quyền lợi an sinh một cách “đồng đều” hơn, cung cấp bảo hiểm và dịch vụ y tế cho toàn dân, áp đặt một sự can thiệp mạnh mẽ và sâu rộng của Nhà Nước vào guồng máy kinh tế tài chánh dưới chiêu bài cứu nguy các hãng xe, các hãng bảo hiểm, các ngân hàng, ...
Tất cả những chuyện lớn này đòi hỏi chi tiêu khổng lồ. Như đã nói phần trên, với các chương trình đồ sộ này, ngân sách nước Mỹ đã thâm thủng quá nặng, khiến Nhà Nước đã mắc nợ tới 13 ngàn tỷ.
Bây giờ muốn giải quyết nạn thất nghiệp thì cũng lại cần có những chương trình kế hoạch vĩ đại khác do Nhà Nước tài trợ, hay những giảm thuế quy mô cho khu vực tư để khuyến khích các công ty tư tạo công ăn việc làm. Cách nào thì cũng chỉ trầm trọng hoá thêm thâm thủng ngân sách khiến Nhà Nước lại mắc nợ thêm nữa.
Cải cách xã hội và giải quyết thất nghiệp, hai chuyện chỉ có thể làm một.
Đối với TT Obama, việc tạo công ăn việc làm chỉ có thể là ưu tiên hạng thứ, sau các chương trình cải cách xã hội, là những chương trình có hậu quả lớn lao và lâu dài cho nhiều thế hệ (giấc mộng của TT Obama) trong khi chuyện thất nghiệp tương đối vẫn chỉ là vấn đề cục bộ ngắn hạn. Do đó, ta mới thấy tình trạng sau hơn 18 tháng chấp chánh, tỷ lệ thất nghiệp vẫn chẳng suy giảm. Và trong tương lai gần, cũng sẽ chẳng có tiến bộ nào. Đó là sự thật chúng ta cần nhìn rõ bất kể những xác quyết của chính quyền Obama. Thực tế mà nói, nếu tỷ lệ thất nghiệp qua năm tới mà xuống được tới mức 9% thì coi như là chúng ta may mắn lắm rồi. (13-6-10)
Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng mỗi Thứ Ba trên Việt Báo.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nelson Mandela (1918-2013), quán quân Giải Nobel Hòa Bình năm 1993, nhà hoạt động chống chế độ phân biệt chủng tộc bị tù 27 năm, và là vị tổng thống người da đen đầu tiên được bầu trong cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của nước Nam Phi vào năm 1994, đã từng nói rằng, “Giáo dục là vũ khí có sức mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” Hơn ai hết, Nelson Mandela là người không những hiểu rõ giá trị thực sự của nền giáo dục mà còn áp dụng kiến thức đó trong việc làm thay đổi đất nước và dân tộc Nam Phi của ông. Ông đã dẫn dắt Nam Phi từ một quốc gia ngập chìm trong bóng tối của thù hận, phân hóa và lạc hậu để vươn mình lên trong ánh sáng của đoàn kết, hòa bình và phát triển.
Hoa Kỳ đã tấn công Iran. Chỉ vài ngày sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump gợi ý rằng có thể trì hoãn bất kỳ hành động quân sự nào của Mỹ trong nhiều tuần, ông tuyên bố vào ngày 21/6 rằng máy bay Mỹ đã tấn công ba địa điểm hạt nhân của Iran, bao gồm cả cơ sở bị chôn sâu ở Fordow. Các quan chức Iran xác nhận rằng các cuộc không kích đã diễn ra. Mặc dù ông Trump khẳng định rằng các địa điểm này đã bị "xóa sổ", nhưng vẫn chưa rõ các cuộc tấn công đã gây ra thiệt hại gì.
Jena, Louisiana – một thị trấn 4.000 dân lọt thỏm giữa rừng thông – nơi bảng hiệu đầu làng ca ngợi đội bóng nữ vô địch của bang, nhưng cách đó chỉ ba dặm, sau hàng rào kẽm gai và lời Kinh Thánh treo lủng lẳng, là Trại Giam ICE đồ sộ - do GEO Group điều hành. Nơi đây hiện giam giữ hơn 1000 người – phần lớn chưa từng bị kết tội hình sự, nhiều người chỉ là dân đang xin tị nạn hợp pháp, số còn lại chưa kịp hiểu vì sao mình bị bắt...
Tại sao Trump lại vội vàng ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và chính sách mới như vậy?AI: Có hai lý do.Đầu tiên, tổng thống vội vàng vì nếu có bất kỳ điều gì sai trái xảy ra vào đầu nhiệm kỳ, ông có thể đổ lỗi cho chính quyền trước và nhà nước (những người làm việc cho ông). Nếu để lâu, những điều sai trái sẽ là trách nhiệm của ông, và Trump không thích chịu trách nhiệm.Thứ hai, ông biết trong hai năm nữa, đảng Cộng hòa sẽ mất quyền kiểm soát Hạ viện trong cuộc bầu cử quốc hội và ông sẽ trở thành què quặt. Ông cần phải hoàn thành mọi việc ngay bây giờ. Ông muốn tập trung vào các doanh nghiệp của mình trong hai năm cuối nhiệm kỳ tổng thống,
Bao dung – một từ nghe thật thanh thoát. Âm tiết của nó cũng thật bình dị, thốt ra từ thanh quản nhẹ nhàng không cần uốn nắn, như cỏ mọc từ đất, như mưa từ trời. Vậy mà ngày nay, trong một xã hội đứng đầu thế giới về tự do, về quyền con người, hai từ “bao dung” bỗng dưng khó tìm. Chính trong tháng Sáu này, tháng gọi là Pride Month, những câu chuyện thương tâm về cộng đồng LGBTQ+ bị chìm trong bóng tối. Có lẽ trong sáu tháng qua, nước Mỹ có quá nhiều những phát ngôn, biến cố, thay đổi mà đối với truyền thông, đó là điều cần phải nói, và nói mỗi ngày. Hoặc cũng có lẽ, trong một chính quyền đang nỗ lực bác bỏ DEI, đóng chặt cửa với di dân, thì truyền thông cũng không dám đào sâu về những gì thuộc về cộng đồng yếu thế. Cho dù, đó là một án mạng lấy đi cuộc sống một con người, hoặc chấm dứt những nguyên tắc vốn đã được nhìn nhận hàng thập kỷ.
“Nơi nào người ta bắt đầu đốt sách, nơi đó người ta rồi cũng sẽ thiêu người.”— Heinrich Heine. Câu nói nổi tiếng từ thế kỷ XIX của thi sĩ Heinrich Heine, tưởng chỉ là tiếng vọng u ám của bóng ma lịch sử nhưng hôm nay, giữa thế kỷ XXI, lời cảnh báo ấy lại trở nên rúng động – ngay trên đất nước từng được xem là ngọn hải đăng của tự do học thuật. Oái oăm thay, những dấu hiệu đầu tiên của bóng tối không phát xuất từ một chế độ độc tài phương Đông, mà từ chính nước Mỹ – xứ sở từng được xem là ngọn hải đăng của giáo dục tự do.
Donald Trump không đội vương miện, nhưng ông đã luyện được cách bắt cả một đảng chính trị quỳ gối. Và cũng như các ông vua cổ đại, ông không cần luật – ông chính là luật. Nếu Toà Tối cao chống đối, ông sẽ gọi đó là “phản quốc.” Nếu truyền thông phản biện, ông gọi đó là “tin giả.” Nếu có cuộc bầu cử mà ông thua, ông sẽ bảo đó là “gian lận.” Và nếu có ai dám nói điều gì khác, ông sẽ gửi quân đội tới – như ông đã làm ở Los Angeles, để dạy cho đám biểu tình “hỗn xược” ấy một bài học về dân chủ... bằng đạn cao su và lựu đạn cay.
Ryanne Mena là một nhà báo đưa tin về tội phạm và an toàn công cộng cho Southern California News Group. Thứ Sáu, 6/6, ngày đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình phản đối chính sách nhập cư của chính quyền Trump, chống lại các cuộc bố ráp của Cảnh Sát Di Trú (ICE), Mena đã có mặt ngay trên đường phố Los Angeles, bên ngoài Trung tâm giam giữ Metropolitan,L.A. Tại đây, cô bị trúng đạn hơi cay ở đùi bên trái Ngày kế tiếp, nữ phóng viên này bị trúng đạn cao su của các đặc vụ liên bang bắn vào đầu, bên phải, cách tai của cô chỉ khoảng 1 inch. Những tấm ảnh Mena và các đồng nghiệp khác bị thương lan tỏa khắp Instagram, Twitter.
Giữa lúc Tòa Bạch Ốc đang tìm mọi cách cứu vớt mối quan hệ Trump-Musk thì các cựu quan chức an ninh y tế cho biết chính quyền Trump hủy bỏ $766 triệu trong các hợp đồng nghiên cứu phát triển vaccine mRNA để chống lại các loại đại dịch cúm. Với họ, đây là đòn giáng mới nhất vào quốc phòng quốc gia. Họ cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải nhờ đến lòng trắc ẩn của các quốc gia khác trong đại dịch tiếp theo. ABC News dẫn lời Beth Cameron, cố vấn cao cấp của Trung tâm Đại dịch thuộc Brown University Pandemic Center, và là cựu giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc, cho biết: “Các hành động của chính quyền đang làm suy yếu khả năng phòng ngừa của chúng ta đối với các mối đe dọa sinh học. Việc hủy bỏ khoản đầu tư này là một tín hiệu cho thấy chúng ta đang thay đổi lập trường về công tác chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Và điều đó không tốt cho người dân Mỹ.”
Ăn mặc đẹp là nói về thời trang. Lịch sử “thời trang cao cấp” thuộc về truyền thống của Pháp: Haute couture từ thế kỷ 17. Đến thế kỷ 19, ngành thời trang cao cấp đã phát triển thành một phương tiện kích thích tăng trưởng trong nền kinh tế Pháp. Trong thời gian này, các nhà tạo mốt như Dior, Chanel và Balenciaga đã được thành lập. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, ngành thời trang cao cấp ở Pháp đã mất đi phần lớn sự huyền bí của mình và phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thị trường quốc tế khác, đặc biệt là ở Ý và Hoa Kỳ. Sự thành công của bối cảnh thời trang quốc tế và tiềm năng lợi nhuận đã thu hút sự chú ý của các tập đoàn hàng xa xỉ, được tiên phong bởi ông trùm kinh doanh người Pháp và người sáng lập LVMH Bernard Arnault vào năm 1987. Ngày nay, các tập đoàn này vẫn tiếp tục duy trì hoạt động lịch sử của các nhà thời trang xa xỉ thông qua việc bổ nhiệm các giám đốc sáng tạo, những người diễn giải và chỉ đạo triết lý thiết kế của thương hiệu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.