Hôm nay,  

Nhạc Chế

12/04/202400:00:00(Xem: 878)
Ngày nhỏ chúng tôi căng miệng hát một cách thích thú bài nhạc chế từ bài La Marseillaise, bài quốc ca của Pháp. Tôi thuộc cho tới bây giờ, sau nhiều chục năm tôi vẫn còn hát được. “Thầy đồ ngày xưa quen thói  nuôi móng tay dài / quần trễ tai hồng đỏ đen mực son. Đầu lúc la lúc lắc đảo như lên đồng / được dăm trẻ ghẻ lở quá hủi phong. / Quát lấy điếu, đem bình phóng , bưng cơi trầu. / Nhân chi sơ, người đi trước / ta bảo  phải để vào tai dốt đặc.  Ở trên đầu thầy có cái chi lúc lắc? Búi tó, nó to bằng niêu / tính ghét móng tay hằng cân / thọc luôn trong nách, bật tanh tách hoài / Ngâm thơ thích chí rung đùi”. Nhớ nhưng không chắc có đúng không,  có thể có chỗ không nhớ tôi đã chế ra. Nhạc chế cũng như ca dao không bao giờ có tên tác giả. Không biết đây là một bài nhạc chế để chọc quê chính quốc lúc đó đang cai trị Việt Nam hay đùa chơi với các thầy đồ của một anh học trò không thích tới trường.

Nhạc chế thường là để mua vui vô thưởng vô phạt. Bản Love Story quá phổ thông, ai trong chúng ta cũng biết đó là một bản tình ca lãng mạn. Nhưng một ông, có lẽ là dân ghiền thuốc lá, đã chế ra như ri. “Biết nàng thèm thuốc lá / Tôi có thuốc lào, mời nàng tức tốc / Nàng đòi thuốc lá, không hút thuốc lào, không hút thuốc lào vì nàng quý phái / Mặc nàng quý phái tôi vẫn hút hoài mịt mùng khói thuốc / Ôi điếu thuốc lào / Thế rồi nàng vã quá, nàng đành hút ké, ôm cái điếu cầy nàng ngồi bó gối / Nàng ngồi bó gối môi mắt mơ màng miệng nàng bốc khói / Miệng nàng chúm chím, sương khói quanh người lần đầu quá đã / Ôi điếu thuốc lào!”

Tôi vốn mê bản nhạc này nên nghe bản nhạc chế thấy tội cho hai tác giả Francis Lai và Carl Sigman, một ông làm nhạc, một ông viết lời. Hai ông này ở xa, chẳng biết có còn thở trên cõi đời này không nữa, có tội cũng chẳng gửi qua nỗi lòng mình cho hai ông được. Thôi thì nói chuyện gần hơn một chút.
Tôi rất thích bản “Thuyền và Biển” thơ Xuân Quỳnh, nhạc Hữu Xuân. Đây là một bài thơ hay của nhà thơ vắn số. Có lẽ vì bài thơ quá hay nên có tới hai nhạc sĩ phổ nhạc. Nhạc sĩ Hữu Xuân và Phan Huỳnh Điểu. Tôi thích bài của Hữu Xuân do Diễm Liên hát. Bản nhạc chế như sau: “Chỉ có tiền mới hiểu / Vợ yêu ta nhường nào / Chỉ có vợ mới hiểu / Tiền lương ta là bao. / Những ngày đưa chậm lương / Vợ mặt mày cau có / Những ngày đưa chậm lương / Tiền chi tiêu thật khó. ? Nếu lỡ tiêu hết rồi / Vợ có còn êm ái? / Nếu lỡ tiêu thật rồi / Tiền lương ta ai lấy?”

Nhạc chế thường để mua vui khơi khơi như vậy nhưng nhạc chế nhiều khi cũng ôm ấp nỗi niềm. Khi còn bị nhốt trong trại tù cải tạo, tôi cũng đã chế nhạc. Ngày đó, sau những giờ lao động mệt nhọc, buổi tối chúng tôi chỉ muốn nghỉ ngơi. Nhưng cơm nước xong là những giờ họp tổ, sinh hoạt nhà, học tập kiểm điểm. Cuối cùng là căng miệng lên hát. Bài hát phổ biến là “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây”, thơ Phạm Tiến Duật do Hoàng Hiệp phổ nhạc. Hầu như đêm nào cũng leo lên Trường Sơn nên thấy ớn bà chè luôn. Một đêm, trằn trọc không ngủ được, tôi chế bản nhạc này, vừa để chọc quê ông bạn già nằm cạnh có cô bồ trẻ, vừa để tâm sự với chính mình.  Cùng đứng ngắm chung một vầng trăng / hai đứa ở hai đầu xa thẳm. /  Đường ra về mùa này đẹp lắm. / Người bên đông nhớ người bên tây. /  Ở bên đông anh ăn, anh ăn khoai sắn hơi nhiều, con đường cải tạo khó khăn gập ghềnh cho đời anh nát. / Hết rắn rồi anh bắt cóc anh ăn. / Còn bên tây em sống vẫn phây phây / hết ăn rồi lấy xe đi tìm kép / biết rằng em bắt được kép lạ / chắc em quên đời có anh rồi. / Em lên xe trời đổ cơn mưa / Chiếc gạt nước xua đi nỗi nhớ / Anh gánh nước nắng về rực rỡ / Chiếc thùng to nặng trĩu vai xương. / Từ bên anh đưa sang bên em / Những cơn sầu nhớ nhung dài vạn kiếp / Biết rằng em bắt được kép lạ / Chắc em quên đời có anh rồi!.

Trí nhớ tôi thật tệ. Tác giả không chắc còn nhớ đúng được “tác phẩm” của mình. Bài này không theo “truyền thống” của nhạc chế là không có tác giả. Một bài khác cũng có tác giả đàng hoàng. Bản nhạc rất nổi tiếng: “Hà Nội Mùa Này Vắng Những Cơn Mưa” của Trương Quý Hải. Năm đó Hà Nội lụt, “phố cũng như sông”. Nhiều người có máu tếu cao độ đã đổi tên Hà Nội thành Hà Lội! Có hai người đã chế bản nhạc này. Điều ngộ nghĩnh nằm ngay trong tên của bản nhạc. Hà Nội vắng những cơn mưa mà mưa thối đất. Hai anh Trương Công Sáng và Trần Chí Hiếu lội mưa ngán quá bèn nảy ra ý chế bài hát của bạn. Hai anh vốn thân tình với tác giả Tương Quý Hải. Hứng đã có, họ “sáng tác” rất nhanh. Anh Trương Công Sáng cho biết: “Ngày ấy Hà Nội bị ngập, mình và Hiếu sau khi lội nước tới cơ quan thấy ai cũng xôn xao về việc ngập lụt nên Hiếu mới nảy ra ý tưởng “Chế lời bài hát đi anh”. Tôi ngại bản quyền, Hiếu lại bảo: “Sợ gì, lôi bài ông Hải ra chế cho lành!”. Chúng tôi sáng tác và hoàn thiện cũng rất nhanh, chỉ khoảng 30 phút. Khi anh Hải đến chúng tôi cho nghe thử. Chỉ thấy anh vừa nghe vừa vỗ đùi đen đét khoái chí”. “Hà Nội mùa này phố cũng như sông / Cái rét đầu đông chân em run ngâm trong nước lạnh / Hoa sữa thôi rơi, em tôi bơi cả chiều trên phố / Đường Cổ Ngư xưa, ngập tràn nước sông Hồng / Hà Nội mùa này chiều không có nắng / Phố vắng nước lên thành con sông / Quán cóc nước dâng ngập qua mông / Hồ Tây, giờ không thấy bờ / Hà Nội mùa này lòng bao đau đớn / Ta nhớ đêm nao lạnh đôi tay / Cho đến đêm qua lạnh đôi chân / Giờ đây lạnh luôn toàn thân / Hà Nội mùa này phố cũng như sông / Cái rét đầu đông chân em thâm vì ngâm nước lạnh / Hoa sữa thôi rơi, em tôi bơi cả chiều trên phố / Đường Cổ Ngư xưa, ngập tràn nước sông Hồng / Hà Nội mùa này người đi đơm cá / Phố vắng nước lên thành con sông / Quán cóc nước dâng ngập qua mông / Hồ Tây tràn ra Mỹ Đình / Hà Nội mùa này lòng bao đau đớn / Ta nhớ đêm nao lạnh đôi tay / Cho đến đêm qua lạnh đôi chân / Giờ đây lạnh luôn toàn thân”. Tác giả bài hát chính quy Trương Quý Hải nói về đứa “con lai” của mình: “Phải nói là tôi thật bất ngờ về sự sáng tạo của các bạn trẻ bây giờ. Và cũng đúng như Sáng nói, tôi cũng bị các bạn trẻ làm cho phải cười ra nước mắt. Mỗi bài phù hợp với một ngữ cảnh, không thể đem ra so sánh. Bài hát chế thì phù hợp với cài ngày lụt lội đó. Trong cái khó khăn có một tiếng cười chia sẻ, để quên đi cái vất vả, để tìm thấy cái lạc quan thì bài hát chế cũng có giá trị riêng và hướng tới một đối tượng riêng”.

Nhạc chế cũng có đời sống riêng của chúng. Đó là một thứ văn nghệ dân gian, được phổ biến rộng rãi chỉ bằng truyền khẩu giúp cho mọi người có được những giây phút giải trí. Trên thực tế lời của các bản nhạc chế đi ngay vào sự kiện, không vòng vo tam quốc, thấm ngay vào lòng người. Đó là những lời kề cận của người sống trong cùng một hoàn cảnh, chung một nhịp đập của con tim. Dân miền Nam đã trải qua cuộc đổi đời mãnh liệt vào tháng 4/1975. Nhạc chế không bỏ qua biến cố đau thương này.

Bài “Túp Lều Lý Tưởng” của Tôn Nữ Trà Mi, một bút danh khác của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, là bài hát quen thuộc của dân miền Nam. Đôi song ca Hùng Cường - Mai Lệ Huyền đã làm mưa làm gió với bài này trên truyền thanh truyền hình trước 1975. Khi Sài Gòn được “giải phóng” bản nhạc chế đã phát hết tác dụng. Dân Sài Gòn nghe mà mát bụng. “Từ ngày giặc Mỹ vô đây mình cất nhà lầu / Từ ngày giặc Mỹ vô đây mình sắm xe hơi / Từ ngày giặc Mỹ vô đây mình sắm Honda / Lâu lâu mình sắm cái lò ga, lâu lâu mình sắm cái đồng hồ / Dần dần mình sắm sắm luôn người yêu / Từ ngày giải phóng vô đây mình bán nhà lầu / Từ ngày giải phóng vô đây mình bán xe hơi /

Từ ngày giải phóng vô đây mình bán Honda
/ Lâu lâu mình bán cái lò ga /  lâu lâu mình bán cái đồng hồ / dần  dần mình bán bán luôn cái cầu tiêu / Đó là lý tưởng của bác và của anh / anh mang vào trong Nam / Bắt người dân nghèo phải đói khổ phải lầm than”.

Dân chúng Sài Gòn ngày đó có nghề “chà đồ nhôm”. Nhìn quanh nhà có chi mại được là khuân ra chợ trời. Khách hàng là những anh bộ đội “giải phóng”. Còn chi cay cú hơn là dùng ngay bài “Giải Phóng Miền Nam” chế thành giải phóng đồ nhà. Giải phóng vào đây, chúng ta cùng bán hết ráo / Còn cái cát xét cũng ra chợ cũ bán nốt / Ôi! ti vi, máy may nhà mình xài mấy đời: đem bán cho bộ đội kiếm tiền / Đây bếp ga, quạt máy / Kia quần tây, sơ mi cứ vậy mà chúng ta đem ra bán dần”.

Bán mãi cũng hết, dân miền Nam đã phải trải qua thời kỳ đói vàng mắt sau ngày “giải phóng”. Ông Trần Long Ẩn là nhạc sĩ của phía bên thắng trận nhưng không thắng nổi lòng dân. Trần Long Ẩn có bài ca rất nổi tiếng, sau 30/4 được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện truyền thông, bài “Tình Đất Đỏ Miền Đông”. Không bao lâu sau, bài hát đỏ này được chế lời, nói lên nỗi bực dọc của người dân đói rạc người. “Ai đã ăn mì và khoai giá rẻ / Ăn mấy bữa thì mặt mũi xanh lè / Để heo ăn thì heo mau lớn / Cho người ăn thì… mau sớm vô nhà thương / Ai đã ăn mì và khoai giá rẻ / Ăn mấy bữa thì bị ghẻ tưng bừng / Ghẻ tới lưng rồi… chui qua mông… đít / Vô nhà thương ngồi… xin thuốc đem dzìa xoa / Tổ Quốc ơi, ăn khoai mì ngán quá! / Nhà nước ơi, sao ăn độn hoài hoài / Từ giải phóng vô đây, không thấy mặt hột cơm …”

Chuyện ăn độn, khi thì khoai sùng, khi thì sắn nổi gân máu, khi thì bột mì mốc, khi thì bo bo là chuyện tôi đã từng cùng đồng bào tôi trải qua. Bài “Gia Tài Của Mẹ” của Trịnh Công Sơn được cho dính đầy khoai sắn.

Một ngàn năm ta đuổi thằng Tàu / Một trăm năm ta đuổi thằng Tây / Hai mươi năm đuổi Mỹ từng ngày / Gia tài của mẹ: gạo độn ngô khoai / Gia tài của mẹ: gạo mốc dài dài / Dạy con đeo răng sắt mà nhai / Dạy con mua thuốc đau dạ dày / Ăn sắn con thành chai / Ăn sắn tiêu hình hài”.

Bản “Lên Đàng” của Lưu Hữu Phước là một bản nhạc hùng thường được hát trong những dịp họp mặt của giới trẻ, nhất là trong các sinh hoạt của Hướng Đạo. Bản nhạc có từ thời kháng chiến, thời mà tác giả bản nhạc say sưa với các phong trào thanh niên. Bản nhạc chế cũng “lên” nhưng là lên tàu vượt biên. “Nào anh em ta cùng nhau mua ghe đóng tầu / Kiếm thuyền 3 bloc /  Ta cùng vượt biển bái bai quê hương rủ nhau qua Mỹ lưu đày / Đoàn ta chen vai sợ chi công an, biên phòng…”

Cái thời mà trong đầu mỗi người dân đều có một ông quan xưa rồi, thời nay trong đầu mỗi người dân đều có một chiếc ghe. Có tiền thì chạy đôn chạy đáo mua một chỗ ngồi trên những con thuyền ra khơi. Không có tiền thì canh me cốt sao cho thoát khỏi…quê hương. Quê hương chỉ còn là những ngày vàng con mắt, chặt con tim chẳng ai còn muốn lưu luyến. Hầu như mọi tầng lớp, mỗi người đều có tiểu sử trong đó có mục “vượt biên”. Bản nhạc nổi tiếng “Tàu Về Quê Hương” của Hồng Vân được quay mũi lái thành tàu rời quê hương. “Quê hương thanh bình mà sao ta sống không yên / Đưa nhau lên tàu vượt biên em thấy vui hơn / Vượt biên mình đóng ba cây / Vượt biên mình tới Ga-lăng / Vượt biên mình tới Bi-đông làm thân tị nạn / Không ai cho vàng mình đi theo lối canh me / Canh me không thành mình đi theo ngã Cao Miên / Vượt biên mình kiếm tương lai /Vượt biên mình kiếm đô la / Rồi mai mình lấy visa, làm thân Việt kiều”.

Đi hay về, Trịnh Công Sơn đã dùng dằng trong “Một Cõi Đi Về”. Không “đi” được, không yên phận “về”, thôi thì bia ôm cho quên phận của một tên lạc bày giữa quê hương. “Bao nhiêu năm rồi còn mãi bia ôm / Ôm nhau loanh quanh cho đời đỡ mệt / Em ơi! Bia ôm tha hồ chặt đẹp / Tình ái lăng nhăng – Một cõi đèn mờ / Lời nào của bia – Lời nào của rượu / Đùi nào của em – Đùi nào của bạn /  kế bên / Một thùng vừa bay – Một thùng vừa cạn / Ngồi vào lòng nhau cho vui trọn vẹn

 /  Tối ngày / Nhân dân chi tiền thì cứ bia ôm / Ai không bia ôm vô cùng khờ dại / Ta đi bia ôm cho đời trẻ lại / Kệ bố nhân dân dù đói hay nghèo”.
Tác giả của một nhạc phẩm bị chế lời chắc không vui khi đứa con tinh thần của mình bị lai căng. Cứ như một tổ chim bị tu hú ghé bàn tọa vào đẻ nhờ. Chim tu hú không biết làm tổ nên phải đẻ trứng vào tổ chim khác. Tác giả các bản nhạc chế, thường là vô danh, cũng đã mượn đỡ những bản nhạc nổi tiếng để gửi gấm tâm sự mình. Tôi không sáng tác nhạc nên không biết các nhạc sĩ sáng tác có nhạc bị chế cảm nghĩ ra sao. Nhưng thiết nghĩ họ nên vui vì nhạc mình có được nhiều người ê a, thì nhạc chế mới chọn để làm chốn nương thân.
                                                                                                   
03/2024                                                                             
Website: www.songthao.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hai phụ nữ bị thưa ra Tòa án Paris về tội xúc phạm sĩ diện và đời sống riêng tư vì hai người này quả quyết bà vợ của ông Tổng thống Macron là người chuyển giới và bà vì thế không phải là mẹ của các con của bà. Hai phụ nữ loan tin thất thiệt đó sẽ ra Tòa vào ngày 16 tháng 6 tới đây. Một bà là đồng bóng, bà kia là nhà báo độc lập. Đồng thời, nhiều Twitter và hashtag #JeanMichelTrogneux đồng loạt quả quyết Đệ nhứt phu nhơn thật sự là một phụ nữ chuyển giới, tên khai sanh là Jean-Michel Trogneux.
Ảo thì không phải là sự thật, không có thật. Những từ ngữ mà chúng ta thường nghe có liên quan xa gần đến việc sống ảo là ảo ảnh, ảo giác, ảo tưởng, ảo vọng, vân. vân...Ảo thuật nhằm đánh lừa giác quan chớ không phải là thật. Đó chỉ là một trò giải trí để mua vui chớ không có hại như ảo giác, ảo tưởng, ảo vọng của những người sống ảo, xa rời thực tế. Sống ảo là một căn bệnh tâm lý gây ra bởi nhiều lý do phức tạp khác nhau, tùy trường hợp của mỗi cá nhân. Có thể là do kém hiểu biết cùng với mê tín, mê muội, có thể do một tại nạn hay một biến cố xảy ra để lại một vết thương trong tâm hồn, có thể do một chấn động vì người thân đột ngột qua đời, có thể do sự thất bại ngoài xã hội, và trong gia đình, có thể vì ảo tưởng theo đuồi một mục tiêu không thật và cuối cùng chạm phải một thực tế phủ phàng.
Tình cờ trong một gian hàng của nghệ nhân làm Bonsai, cây kiểng, tôi thấy trưng bày một chậu kiểng nhỏ, có nhiều nhánh cong queo, lá hình bầu dục, phía dưới có nhiều lông trắng óng ánh như nhung, trĩu nặng từng chùm quả nhỏ tròn trông giống như trái mồng tơi nhưng nhiều màu sắc: xanh, vàng, đỏ, tím đen... trông rất quen, nhưng không thể gọi ngay ra tên của loài cây này được...
Tôi quen biết một cô Tây, gọi là một cô đầm thì đúng hơn, tên gọi đầy đủ là Florence Cavalier, vợ của ông tây Jean Paul Cavalier. Florence còn trẻ, lối 30 tuổi. Ngày từ khi còn nhỏ, 9 tuổi, Florence đã là một hướng đạo sinh, scout, lớn lên em học và hành nghề y tá. Cái gốc scout và nghề nghiệp y tá bổ túc lẫn cho nhau, thêm Flor có ngoại hình xinh xắn tươi vui, thành ra trông lúc nào cô ấy cũng tràn đầy nghị lực, sức sống và yêu đời...
Muốn biết một đất nước có văn minh hay không, người ta thường quan sát nhiều khía cạnh khác nhau với một tinh thần phóng khoáng, một tâm trạng cởi mở, không thiên vị, về xã hội, cách điều hành đất nước (governance), việc bảo tồn và thăng tiến văn hóa, về mức sống người dân như việc chăm sóc sức khỏe, môi trường, giáo dục, và trên hết là sự hạnh phúc (well-being) của người dân...
Cuối tháng ba, đầu tháng tư và kéo dài đến tháng sáu, tháng bảy, du khách đến với Đà Lạt, từ những con đường Hai Bà Trưng, Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, đến Hồ Xuân Hương, Chợ Đà Lạt, hay Thung Lũng Tình Yêu, Thiền Viện Trúc Lâm... sẽ thấy lòng mình chùng xuống, trước sắc tím lãng mạn, êm đềm và thơ mộng của những cây “ phượng vĩ tím” hay gọi tắt là “phượng tím”. Những cây phượng có nguồn gốc từ Châu Âu, du nhập vào Đà Lạt từ những năm 1962 của thế kỷ trước.
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội, người người nói, nhà nhà nói. Nó trở thành từ cửa miệng của rất nhiều người trong đạo lẫn ngoài đời. Những tà sư, thầy cúng, các nhóm lợi ích kết hợp với những thế lực chính trị và thế lực ngầm ra sức phá rừng, xẻ núi, lấp ruộng… để làm những ngôi chùa, đền, miếu khổng lồ phục vụ cho cái gọi là du lịch tâm linh, hành hương tâm linh… Ngoài những ngôi chùa khổng lồ ấy ra còn có vô số chùa tư, đền, miếu, am, dinh, miễu...mọc lên như nấm sau mưa. Có một điểm chung là các cơ sở này thờ hằm bà lằng từ Phật, thánh thần, thiên, ông đồng bà cốt, cậu hoàng… và cả những nhân vật chính trị thế tục.
Người đọc nhìn thấy môt hình ảnh rất nhỏ, khiêm tốn, ngay trong ngày đầu 30-4-1975, hình ảnh người chiến binh giải phóng Sàigòn đang quì gối cầu nguyện bên ngoài ngưỡng cửa Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn. ..
Tôi đã xem phim “Oppenheimer” chiếu ngoài rạp, một phần vì tiểu sử của nhà khoa học vật lý đã chế ra bom nguyên tử, từng giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học U.C. Berkeley và vì cũng muốn biết ngôi trường thân yêu của mình đã được lên phim như thế nào.
Chùa Linh Sơn ở Joinville Le Pont của chúng tôi, bên dưới chánh điện là một phòng sinh hoạt Phật sự khá khang trang và rộng rãi dành cho các em oanh vũ gia đình Phật tử Quảng Đức. Các em tới học Phật pháp, tập hát, học giáo lý và cùng làm văn nghệ. Trên tường chính diện có treo một tấm tranh lớn như bằng hai cái chiếu, chiếm gần hết một phần tường. Trong tranh là cảnh biển trời bao la xanh xanh vây quanh, tọa lạc ở gần giữa là hình tổ Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc giầy trên tích trượng vắt vẻo trên vai. Ngài đang thong dong du hành vô ngại đầy an bình.