Hôm nay,  

Sự tối quan trọng của yếu tố “Viễn Kiến” trong một cuộc cách mạng (Phần I)

18/03/202408:54:00(Xem: 718)
revolution

Việt Nam và Trung Quốc sẽ là những nước dân chủ. Vấn đề không phải là sẽ dân chủ hay không, mà vấn đề là vào thời điểm nào. Chính các người Cộng Sản tại hai quốc gia này cũng phải công nhận tính bất khả vãn hồi của tiến trình dân chủ hóa đó. Cũng chính cựu thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo, trong một cuộc phỏng vấn của Chương Trình GPS trên CNN, ngày 23 tháng 8, 2009, đã nhắc đến xác suất hình thành của một nền dân chủ lưỡng đảng tại Trung Quốc trong 25 năm. Trong khi đó tại Việt Nam, vào cùng thời điểm, cựu thủ tướng CSVN là Nguyễn Tấn Dũng thì chỉ im lặng nắm quyền và không có quan điểm nào cả. Điều này nói lên khoảng cách rất xa giữa phẩm chất của người nắm quyền CSVN và CSTQ, nhất là tính thiếu viễn kiến trầm trọng của giới lãnh đạo CSVN như sẽ trình bày sau.
    Dĩ nhiên 25 năm là một thời điểm xa vời và chỉ có thể là giấc mơ kéo dài quyền lực của những lãnh tụ độc tài Trung Quốc. Dân tộc Trung Hoa sẽ không nhẫn nại như họ mong muốn. Tiến trình “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong hàng ngũ đảng và những biến động cách mạng lật đổ các chế độ độc tài đương nhiên sẽ xảy ra tại Trung Quốc và Việt Nam, vì các dân tộc này kỳ vọng và xứng đáng được những quyền tự do căn bản mà phần lớn nhân loại đang hưởng thụ.
    Mọi người Việt Nam đều có trách nhiệm góp phần vào cuộc cách mạng dân chủ hóa đất nước đó.
    Để ý thức rõ hơn về trách nhiệm cao quý này của toàn dân, chúng ta phải hiểu danh từ “cách mạng” có nghĩa là gì?
    Trên phương diện chính trị, cách mạng có nghĩa là thay đổi một trật tự xã hội này bằng một trật tự xã hội khác. Hàm chứa trong trật tự xã hội mới là một luồng tư tưởng chỉ đạo khắc chế trật tự xã hội bị thay thế. Thông thường đây là một sự thay đổi có tính đột biến và đổ máu. Tuy nhiên đổ máu không nhất thiết phải xảy ra. Các cuộc cách mạng lật đổ các chế độ Cộng Sản tại Đông Âu và Liên Bang Xô Viết đã kết thúc trong tinh thần bất bạo động.
    Vào thời điểm Việt Nam và Trung Quốc chuyển mình trở thành những chế độ dân chủ đa đảng thật sự, thì sự chuyển mình này có thể được nghiêm chỉnh định nghĩa như là một cuộc cách mạng và xác xuất mang tính bất bạo động rất cao.
    Trong quá khứ, hai chữ “cách mạng” được sử dụng trong ý nghĩa tích cực, vì những người muốn thay đổi một trật tự xã hội hiện hành luôn luôn hy vọng trật tự xã hội mới, mà mình cưu mang, sẽ đem lại một tương lai tươi đẹp hơn cho dân tộc họ.
    Tuy nhiên lịch sử chứng minh rằng thực tế không phải luôn luôn như thế. Thực tế, trái lại, cho thấy  mọi cuộc cách mạng dù tiến bộ và tích cực đến đâu, đều có khuyết điểm và cần phải tu chính thêm. Hơn nữa có những cuộc cách mạng không những hoàn toàn vắng bóng những yếu tố tích cực, mà còn mang lại tại họa cho dân tộc xuyên qua nhiều thế hệ. Điển hình là các cuộc cách mạng Cộng Sản và Hồi Giáo cực đoan mà chúng ta sẽ phân tách trong bài này.
    Chúng ta cũng sẽ phân tách tầm mức quan trọng chiến lược của yếu tố viễn kiến trong nhận thức của những người lãnh đạo. Yếu tố viễn kiến giữ một vai trò tối quan trọng, giúp chúng ta phân biệt giữa một cuộc cách mạng có tính tiến bộ và một cuộc cách mạng mang tính phản tiến bộ, gây tai họa cho một dân tộc và đôi khi cả nhân loại.
    Thế nào là yếu tố viễn kiến trong cách mạng?
    Một cách vắn tắt, trên phương diện tiêu cực, viễn kiến trong cách mạng là khả năng đo lường và khống chế những tác hại từ tính đột biến của cách mạng, khi thay đổi một trật tự xã hội này bằng một trật tự xã hội khác. Trên phương diện tích cực, viễn kiến là khả năng nuôi dưỡng lâu dài những phúc lợi cho dân tộc qua thành quả của cuộc cách mạng.
    Như vậy viễn kiến sẽ có những đường nét sau đây:
    Có lý tưởng tích cực hướng về một tương lai xán lạn hơn cho dân tộc hoặc nhân loại. Ý thức một cách sâu sắc rằng một cuộc cách mạng hướng về tương lai, không thể đoạn tuyệt với quá khứ của một dân tộc. Trái lại phải tích cực tiếp nối quá khứ đó.
    Tính tích cực của một cuộc cách mạng không nhất thiết là phản đề của yếu tố ôn hòa bất bạo động. Một tổ chức cách mạng nghiêm chỉnh phải tạo cho mình khả năng khống chế những thành phần quá khích và ý thức hệ giáo điều. Một tổ chức cách mạng trưởng thành phải bao gồm trong cấu trúc của mình một cơ chế đủ mạnh để dẹp tan mọi khuynh hướng thể chế hóa phương tiện (institutionalisation des moyens) hiểu theo nghĩa của tư tưởng gia người Pháp Bertrand De Jouvenel (1903-1987) như sẽ giải thích sau.
    Khi đáng giá những cuộc cách mạng và những nhân vật lãnh đạo, chúng ta cần phải nhìn bản chất của các cuộc cách mạng và hậu quả lâu dài trên tiền đồ của đất nước. Sự thành công hay thất bại vào thời điểm của cuộc cách mạng bùng nổ không phải là yếu tố quyết định.
 
1. Magna Carta năm 1215:
 
Khi chúng ta nhìn lại lịch sử của các cuộc cách mạng đem lại các quyền tự do chính trị hiện nay cho loài người, thì không có biến cố nào quan trọng bằng cuộc cách mạng năm 1215 tại Anh Quốc khi các nhà quý tộc (barons) tại nước này liên kết với những “người tự do” (freemen) vốn là những thường dân được đặc quyền sống trong các thành phố. Liên minh này buộc vua John của Anh Quốc ký một văn kiện lịch sử gọi là Magna Carta (Great Charter of Liberties). Văn kiện này là tiền thân của English Bill of Rights 1689, American Bill of Rights và Canadian Bill of Rights. Magna Carta (chỉ áp dụng cho những freeman) công nhận một số nhân quyền chính đáng, xác nhận vương quyền không thể đứng trên luật pháp và quyền được kháng cáo để pháp luật duyệt xét khi một người bị bắt giam (habeas corpus). (Xem Wikipedia: Magna Carta) Tuy cuộc cách mạng Magna Carta, so với bối cảnh chính trị ngày hôm nay, có tính thô sơ, đơn giản và không ngó ngàng đến vận mệnh của đại đa số người dân Anh Quốc thời bây giờ tiếp tục cuộc sống của những nông nô. Tuy nhiên vào thời điểm đó tính cách mạng của nó không thể chối bỏ.
    Ở một mức độ nào đó thì ngày hôm nay, toàn dân Việt Nam vẫn chưa đạt đến những quyền căn bản mà những freeman tại Anh Quốc đạt được vào thế kỷ 13: tại Việt Nam, vào thế kỷ 21 qua điều 4 hiến pháp, Đảng CSVN vẫn đứng trên và ngoài luật pháp và người dân Việt Nam vẫn chưa có quyền habea corpus như ghi nhận trong Magna Carta.
    Sau khi Magna Carta được ký kết, văn kiện này có một định mệnh nổi trôi xuyên qua lịch sử lâu dài của Anh Quốc. Khi thì được tôn trọng. Khi thì vương quyền lấn lướt và vứt vào sọt rác của thời đại. Khi thì được nâng niu, trùng tu và ca tụng. Tuy nhiên, cùng với sự tranh đấu không ngừng của toàn dân, qua văn kiện lịch sử này, vào cuối thế kỷ 19, Anh Quốc đã có một nền dân chủ rất tiến bộ so với nước Pháp dưới triều vua Louis 16.
    Các nền dân chủ tại Anh Quốc và Hoa Kỳ là những nguồn cảm hứng của nhiều nhà lãnh đạo cuộc cách mạng Pháp năm 1789 như chúng ta sẽ thảo luận sau. Dĩ nhiên trước đó, cuộc cách mạng Hoa Kỳ thành công được là vì đã được dân tộc Pháp tài trợ về vũ khí và ngân lượng. Đồng thời, đồng thời những nhà cách mạng Hoa Kỳ cũng đã sử dụng những tư tưởng vô cùng tiến bộ và sâu sắc của các lý thuyết gia chính trị người Pháp.
 
2. Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ ngày 4 tháng 7 năm 1776:
 
Tinh thần của cuộc cách mạng Hoa Kỳ năm 1776 được diễn tả trọn vẹn qua câu văn bất hủ sau đây trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ:
    “ Chúng tôi khẳng định những sự thật hiển nhiên rằng mọi người đều sinh ra bình đẳng, rằng tạo hóa ban cho họ những quyền bất khả vi phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu tìm hạnh phúc.”
    Đây là đoạn văn được nhắc nhở đến nhiều nhất trong lịch sử chính trị cận kim. Thomas Jefferson là tác giả của Tuyên Ngôn Độc Lập và của đoạn văn này. Tuy bản Tuyên Ngôn Độc Lập không phải là hiến pháp của Hoa Kỳ nhưng nó quan trọng đến mức độ nhiều luật gia nổi tiếng, trong đó có Cựu Tổng Thống Abraham Lincoln cho rằng, mọi sự diễn giải hiến pháp đều phải dựa vào tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập này.
    Cuộc cách mạng Hoa Kỳ xảy ra vì 13 tiểu bang đầu tiên không chấp nhận sự kiện họ phải tiếp tục đóng thuế cho chính quyền vương triều Anh Quốc, mà không được quyền bầu người đại diện cho mình vào quốc hội Anh Quốc. Phương châm của cuộc cách mạng này đơn giản là:
    Không đóng thuế nếu không có người đại diện (No taxation without representation).
    Vương quyền Anh Quốc không chấp nhận điều này. Cuộc chiến tranh cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ xảy ra dưới sự lãnh đạo của Tướng George Washington và sự viện trợ võ khí cũng như tài chánh hùng hậu của Pháp Quốc, vốn là đối thủ của Anh Quốc từ nhiều thế kỷ.
    Ngày 17 Tháng 9 năm 1787, Bản Hiến Pháp Hoa Kỳ được chính thức công bố. Có thể nói rằng, cuộc cách mạng Hoa Kỳ bắt đầu năm 1776 nhưng hoàn tất 11 năm sau đó. James Madison, Thomas Jefferson, John Jay, Benjamin Franklin và Alexander Hamilton đã đóng góp trí tuệ của mình để hoàn thành văn bản lịch sử này. Ngoài việc là những nhà cách mạng, họ còn là những tư tưởng gia sâu sắc và chịu ảnh hưởng nhiều của các tư tưởng gia Âu Châu trước đó như Montesquieu (1689-1755) với quan điểm Tam Quyền Phân Lập (Separation of Powers) và John Locke (1632-1704) với quan điểm Pháp Trị (Rule of Law hoặc Due Process).
    Cuộc cách mạng Hoa Kỳ đã là nguồn cảm hứng cho nhiều cuộc cách mạng lẫn cải cách chính trị tiếp theo trên khắp thế giới. Tuy nhiên cuộc cách mạng này, lẫn hiến pháp của Hoa Kỳ vẫn còn nhiều khuyết điểm và tạo ra nhiều bất công.
    Các điều này đã được phân tích trong bài: “Những Khuyết Điểm của Nền Dân Chủ Hoa Kỳ” cùng một tác gỉa. Nơi đây, chúng ta chỉ nhắc đến 2 khuyết điểm trọng đại nhất và sẽ bàn luận nhiều hơn vào cuối bài tham luận này:
     Trước hết cuộc cách mạng Hoa Kỳ căn bản không phải là một cuộc nổi dậy của toàn dân chống lại vương quyền. Đây là một cuộc nổi dậy của giới địa chủ (landed gentry) chống lại chính sách thuế khóa của vương quyền mà họ cho là bất công. Chính vì thế hiến pháp Hoa Kỳ cho đến bây giờ vẫn ghi nhận “electoral college votes” như là những lá phiếu quyết định trong việc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, không phải là lá phiếu trực tiếp của người dân. Các cha đẻ của hiến pháp Hoa Kỳ phần lớn, nếu không nói là tất cả xuất thân từ giới địa chủ. Vào thời điểm đó của lịch sử, giai cấp của họ đương nhiên trở thành những electors nắm giữ electoral college votes.
    Tiếp theo đó, bất công thứ nhì là số phận và quyền lợi của những người nô lệ da đen không hề được công nhận trong hiến pháp.
    Mãi đến giai đoạn chiến tranh Nam Bắc, Tổng Thống Abraham Lincoln (1809-1865) mới hoàn tất việc giải phóng những người nô lệ da đen. Có thể nói rằng công trình vĩ đại này của Abraham Lincoln là một sự trùng tu không thể thiếu cho cuộc cách mạng Hoa Kỳ.
    Nếu không có công cuộc giải phóng nô lệ này thì nền dân chủ Hoa Kỳ, từ lâu, đã mất đi lẽ sống và hấp lực của nó.
 
3. Cuộc cách mạng Pháp 14 tháng 7 Năm 1789:
 
Pháp là quê hương của những tư tưởng gia chính trị lừng danh của thời Ánh Sáng tại Tây Âu như Montesquieu, Jean Jacques Rousseau, Voltaire. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 18, nước Pháp lại có một chế độ vương quyền, phong kiến lạc hậu và đầy rẫy bất công, so với Anh Quốc phía bắc và Hoa Kỳ bên kia bờ Đại Tây Dương. Thêm vào đó ngân sách quốc gia bị thâm thủng nặng nề vì sự hoang phí của triều đình vua Louis 16, và những sự viện trợ rộng rãi cho các tiểu bang Hoa Kỳ chống lại Đế Quốc Anh. Dân chúng Pháp mọi tầng lớp đều phẫn uất vì sự liên kết giữa Hoàng Tộc, giáo hội Công Giáo (vốn sở hữu nhiều đất đai) và giới quý tộc để bóc lột dân đen.
    Dân chúng nổi loạn và khẩu hiệu tiêu biểu của cuộc cách mạng Pháp là: Tự Do, Công Bằng và Hữu nghị (Liberté, Egalité et Fraternité). Tuy nhiên nếu ta duyệt xét văn kiện tinh thần của cuộc cách mạng này, chúng ta sẽ thấy những gía trị sâu sắc vượt lên trên tính căm thù giai cấp của nó.
    Thực vậy, Bản Tuyên ngôn về nhân quyền và các quyền công dân ngày 26 tháng 8 năm 1789 (Déclaration des droits de l’homme et du citoyen) gồm 17 điều khoản bao gồm các quan điểm căn bản được tác giả tóm lược như sau:
    1. Quyền tự do và bình đẳng
    2. Quyền lập hội chính trị, tư hữu, sự an toàn, chống lại áp bức
    3. Quyền lực tối thượng nằm nơi quốc dân
    4. Tự do là một quyền tự nhiên. Chỉ có luật pháp chính đáng mới giới hạn được
    5. Luật pháp có giới hạn của nó. Con người có quyền làm những điều luật pháp không ngăn cấm
    6. Luật pháp phát xuất từ dân ý. Mọi người đều có quyền giữ các chức vụ chính quyền theo khả năng.
    7. Không ai có thể bị bắt hoặc giam cầm trái luật
    8. Hình phạt chỉ áp dụng khi cần thiết và luật pháp không áp dụng hồi tố
    9. Mọi người đều được giả định vô tội trước khi bị kết án
    10. Tự do tư duy
    11. Tự do trao đổi quan điểm
    12. Công quyền mục đích phục vụ cho toàn dân, không phải cho kẻ nắm quyền
    13. Đóng thuế tùy theo khả năng trả thuế
    14. Nhu cầu thu thuế phải được chứng minh
    15. Mọi công cụ chính quyền phải chịu trách nhiên trước xã hội
    16. Bất cứ xã hội nào cũng phải bảo đảm các quyền nêu trên và áp dụng nguyên tắc phân quyền
    17. Tài sản là quyền tối thượng, chỉ có thể bị thu hồi nếu được bồi thường công bằng và trước khi tịch thu.
     Cuộc cách mạng Pháp là một cuộc cách mạng đẫm máu. Số người chết khoảng từ 170,000 đến 250,000 tức 1% dân số vào thời điểm đó. Nếu dân số nước Pháp bây giờ là trên 68 triệu thì con số người chết tương tự sẽ là trên 680,000 người.
    Mặc dầu cuộc cách mạng Pháp thất bại và bị đế quyền Nã Phá Luân (Napoleon) thanh tóan. Tuy nhiên những lý tưởng đầy viễn kiến của nó vẫn được nuôi dưỡng trong lòng những sĩ quan Pháp trẻ tuổi trong đoàn quân viễn chinh của Nã phá Luân lan tràn khắp Âu Châu. Thêm vào đó, cuộc cách mạng này đi xa hơn cuộc cách mạng Hoa Kỳ trên 3 phương diện:
    Quan điểm phân biệt giữa giáo quyền và thế quyền (church and state) nguyên thủy phát xuất từ triết gia Anh Quốc là John Locke. Tuy nhiên cuộc cách mạng Pháp là một đường gươm dứt khoát phân chia ranh giới giữa giáo quyền và thế quyền một cách triệt để. Quan điểm này của John Locke cũng được đưa vào hiến pháp Hoa Kỳ qua điều tu chính thứ nhất (First amendment) vào năm cuối của cuộc cách mạng Pháp, và được thông qua hai năm sau đó (1791). Đây là một bước đi cần thiết và đầy viễn kiến của cách mạng Pháp, không những đối với những quốc gia Tây Phương thời bấy giờ (khi Giáo Hội La Mã sở hữu nhiều đất đai và không ngần ngại xen lấn vào chính trị) nhưng cũng là một kinh nghiệm lịch sử các quốc gia Hồi Giáo cần phải học hỏi trong tương lai, trên con đường xây dựng dân chủ và hòa bình thế giới.
    Nó đánh dấu sự vùng dậy của giai cấp thứ 3 là giới bình dân (Tiers Etat), lật đổ giai cấp thứ nhất là giáo hội (Premier Etat) và giai cấp thứ nhì là quý tộc (Deuxième Etat), cũng như vương quyền (đứng trên và ngoài các giai cấp): Ngay trong những năm đầu của cuộc cách mạng, giai cấp dân nghèo (sans culottes) đã đóng góp tích cực. Trên phương diện đấu tranh, tính cách mạng của nó cao hơn cuộc cách mạng Hoa Kỳ.
    Cũng vì yếu tính phát xuất từ quyền lợi của giai cấp thấp nhất trong xã hội mà cuộc cách mạng Pháp trở thành nền tảng của những chế độ dân chủ đa nguyên triệt để, thay vì những chế độ nhị nguyên chính trị như Hoa Kỳ, hoặc ngay cả Anh Quốc (vì tuy Anh Quốc có hơn 2 đảng chính trị nhưng trên thực tế chỉ có 2 đảng là có thực quyền).
    Cuộc cách mạng Pháp, cũng như nhiều cuộc cách mạng sau đó đều có sự tham gia của nhiều đảng phái và phe nhóm khác nhau. Tuy nhiên, vào giai đoạn nghiêm trọng nhất thì những thành phần ôn hòa bị các thành phần cực đoan (Jacobins và Sans Culottes) khống chế. Robespierre, Dalton và Hébert là tiêu biểu cho các lực lượng cực đoan này. Nếu không có họ, cuộc cách mạng Pháp đã ít đổ máu hơn, nhất là máu của Hoàng Gia, Giáo Hội và các nhà quý tộc. Nước pháp cũng có xác xuất trở thành quốc gia quân chủ lập hiến đầu tiên có một bản hiến pháp thành văn.
    Mặc dầu chính Robespierre cuối cùng cũng bị đưa lên đoạn đầu đài, quá nhiều đầu đã rơi và máu đã đổ. Cuộc cách mạng Pháp đã đi quá đà trong lòng dân.
    Nếu không có những thành phần quá khích, và nước Pháp chuyển mình, từ một trật tự xã hội quân chủ phong kiến bất công, sang một nền dân chủ trong hòa bình, thì sẽ không còn cơ hội nào cho Nã Phá Luân sử dụng quân đội để khai tử cuộc cách mạng Pháp, xây dựng đế chế và đem toàn thể Âu Châu tắm máu chiến tranh. Lịch sử của nhân loại có thể sẽ hoàn toàn khác ngày hôm nay nếu không có Robespierre.  
    Tuy không khống chế được trọn vẹn những phần tử quá khích trong cuộc cách mạng, nhưng cuộc cách mạng Pháp vẫn là một cuộc cách mạng mang nhiều yếu tố viễn kiến. 
    Lý do là vì những tư tưởng chỉ đạo của cuộc cách mạng này phát xuất từ trong lòng nền văn hóa Pháp trải qua suốt thời kỳ Ánh Sáng, vốn là giai đoạn sáng tạo nhất của Tây Âu. Những tư tưởng chỉ đạo này trở thành kim chỉ nam cho những chính trị gia nhiều thế hệ tiếp theo, không những tại Pháp mà con trên năm châu bốn bể khắp quả địa cầu. Hầu như sự thất bại của cuộc cách mạng 1789 trở thành yếu tố thần thoại hóa những nhân vật lãnh đạo để họ sống mãi trong lòng dân tộc Pháp. Nếu cuộc cách mạng trường tồn và, dưới ảnh hưởng của tiến trình thể chế hóa phương tiện (như sẽ giải thích sau), nhóm Jacobin  hoặc một nhóm nào khác, trở thành một đảng phái độc tài, gieo rắc đau thương cho cả một thế hệ tại Pháp, thì hào quang của những người lãnh đạo đã lu mờ trong lịch sử.
 
4. Cuộc cách mạng Tân Hợi ngày 10 tháng 10 năm 1911 tại Trung Hoa:
 
Triều đình Mãn Thanh bảo thủ và thối nát. Trung Hoa là một người khổng lồ bệnh hoạn. Tôn Dật Tiên thành lập Trung Quốc Đồng Minh Hội năm 1905 gồm 3 tổ chức chính (Hoa Hưng Hội, Hưng Trung Hội và Quang Phục Hội) và một số lực lượng khác. Tôn Dật Tiên là một nhà cách mạng lớn của Trung Hoa và khởi xướng chủ thuyết Tam Dân Chủ Nghĩa. Vào giai đoạn khởi thủy, những đường nét chính của chủ thuyết này được Ông khai triển để làm kim chỉ nam cho các đồng chí của Ông tham gia cuộc cách mạng Tân Hợi. Sau khi cách mạng Tân Hợi thành công năm 1911, ông được bổ nhiệm làm lâm thời Đại Tổng Thống một thời gian ngắn.
    Chủ thuyết Tam Dân được Ông viết thành sách và xuất bản năm 1927 và bao gồm các yếu tố căn bản sau đây:
    Dân tộc: lấy quốc gia dân tộc làm trọng, để chống lại một mặt chủ nghĩa thực dân đế quốc, và mặt khác ngăn chặn các khuynh hướng chia rẽ Trung Quốc thành nhiều chủng tộc khác nhau như Mông, Mãn, Hán, Hồi (và “Tạng” sau khi Trung Quốc xâm chiếm Tây Tạng).
    Dân Quyền: Ông quan niệm dân quyền phải được chia làm 2 loại:
    a.  Chánh quyền là quyền của dân, gồm quyền bầu cử, đề nghị dự luật, biểu quyết bãi nhiệm chính quyền hay công chức,và quyền phủ quyết các luật pháp
    b. Trị quyền là quyền của chính phủ gồm lập pháp, hành pháp, tư pháp, giám sát và khảo thí (gọi là Ngũ Quyền Phân Lập)
    Dân sinh: chú vào 2 trọng tâm là bình quân địa quyền và tiết chế tư bản. Chủ trương của Ông tương tự một “welfare state” như ngày hôm nay tại Úc Châu, Gia Nã Đại hoặc các quốc gia Tây Âu. Ông muốn dung hòa quyền lợi của tư bản và thợ thuyền, giảm thiểu hố sâu giữa kẻ giàu và người nghèo. (Xem Dương Thành Lợi, Triết Lý Quốc Trị Đông Phương, tt 342-367)
    Năm 1912 Trung Hoa Quốc Dân Đảng được thành lập và Ông trở thành chủ tịch sáng lập. Tuy nhiên mãi đến năm 1924 Trung Hoa Quốc Dân Đảng mới chính thức công nhận Tam Dân Chủ Nghĩa của Ông như là chủ thuyết đấu tranh của đảng.
    Trên thực tế, sự thành công của cuộc cách mạng Tân Hợi chỉ tạm thời. Các thế lực bảo thủ còn quá mạnh. Năm 1913 Ông phải từ chức và nhường quyền cho một cựu đại thần Triều Đình cũ là Viên Thế Khải làm Đại Tổng Thống. Viên Thế Khải muốn tái lập vương quyền nhưng sau đó bị lật đổ. Trung Hoa lại rơi và nội chiến giữa nhiều lực lượng quân phiệt khác nhau. Tuy Trung Hoa Dân Quốc được thành lập nhưng không bao giờ có một chính quyền trung ương vững mạnh. Sau đó Đảng Cộng Sản Trung Quốc chiến thắng tại Hoa Lục năm 1949 và Trung Hoa Quốc Dân Đảng rút ra cố thủ tại Đài Loan.
    Tôn Dật Tiên học hỏi được nhiều từ nền dân chủ Hoa Kỳ và áp dụng vào chủ thuyết Tam Dân của Ông. Thuyết dân tộc một phần phản ảnh thực tế đa chủng tộc và đa văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới. Tinh thần bình đẳng trong dị biệt là một điều kiện tất yếu trong một nước dân chủ. Thuyết dân quyền của Ông là sự khai triển của quan điểm dân quyền (civil rights) tây phương và quan điểm tam quyền phân lập của Montesquieu. Ông có thêm vào hai quyền nữa là quyền giám sát và khảo thí, nhưng trên nguyên tắc quan điểm phân quyền để giảm thiểu sự tập trung quyền lực vào một cá nhân hoặc cơ chế vẫn không thay đổi.
    Thuyết dân sinh của Ông có nhiều ưu điểm nhất. Ông sinh trưởng tại Hạ Uy Di, Hoa Kỳ nhưng không bị cám dỗ bởi những khuynh hướng tư bản. Ông cũng không đồng ý với quan điểm Mác Xít cực đoan. Quan điểm của ông trung dung. Ông chủ trương bảo vệ tư hữu, nhưng giảm thiểu những cực đoan của tư bản vô kiểm soát. Thêm vào đó, những chủ trương của Ông không hề ngăn cản hoặc xen lấn vào nền văn hóa ngàn đời của người Trung Hoa. Ông giúp họ tiến đến một tương lai tốt đẹp hơn nhưng không buộc họ phải hủy diệt quá khứ của họ. Viễn kiến của ông được mọi người Trung Hoa công nhân và tôn sùng cho đến hôm nay.

(Còn tiếp một kỳ)

-- Luật sư Đào Tăng Dực
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
"Dự án Kênh Phù Nam tại Cam Bốt do Trung Quốc đỡ đầu, tuy nói là tuyến thủy vận thôi nhưng vẫn có thể là kênh dẫn thủy nhập điền. Trung Quốc có chiến lược khai thác mối hận thù giữa dân tộc Cam Bốt và Việt Nam để chia rẽ họ, đồng thời tài trợ hàng chục tỉ Mỹ kim mua chuộc Lào và Cam Bốt, ràng buộc họ thành con nợ, để cô lập Việt Nam. Bài tham luận này trình bày một chiến lược hoàn toàn mới cho Việt Nam và liên minh chiến lược cho Việt Nam và Cam Bốt để đối phó với Trung Quốc và Lào." Đó là lời Dẫn nhập bài biên khảo về dự án đào kênh Phù Nam của Cam Bốt, bài của kỹ sư Phạm Phan Long, một chuyên gia về Đồng bằng sông Cửu Long. Sau bài viết của nhà văn Ngô Thế Vinh, đây là tiếng chuông cảnh báo thứ hai về vấn đề này. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Trong công cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp để giành lại chủ quyền cho dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước Việt Nam, tiền nhân của chúng ta đã gian khổ cùng một lòng đánh đuổi bọn xâm lăng ra khỏi mảnh đất thân yêu mà Tổ tiên ta đã bao đời dầy công gầy dựng. Cho nên nhìn lại dòng lịch sử dân tộc từ Bắc vào Nam ở đâu và lúc nào cũng có những vị anh hùng dân tộc đứng lên liều mình cứu nước chống giặc ngoại xâm...
Dự án “Funan Techo Canal” nhằm phục hồi một hệ thống đường thủy đã được xây dựng và vận hành từ triều đại Đế chế Funan-Khmer [sic] có từ khoảng 500 năm trước Công Nguyên. Công trình này nhằm cải thiện giao thông đường thủy trong lãnh thổ Cam Bốt. Con kênh này có chiều dài 180 km, kết nối 4 tỉnh: Kandal, Takeo, Kampot, và Kep. Mục đích chính của dự án này như một kết nối lại với lịch sử và nhằm cải thiện giao thông đường thủy cho các cộng đồng cư dân địa phương. Triển khai dự án này phù hợp với cam kết của Cam Bốt theo điều khoản 1 và 2 của Hiệp Định Sông Mekong 1995, với sự bình đẳng về chủ quyền, tôn trọng những quyền hạn và các lợi ích chính đáng..
Người nhập cư Việt Nam được biết đến với “đạo đức làm việc” mạnh mẽ của họ. Họ sẵn sàng bỏ ra nhiều giờ và hy sinh để đạt được mục tiêu của mình. Tính cần cù này đã giúp họ thành công trong nhiều lĩnh vực, bao gồm kinh doanh, giáo dục và các ngành nghề khác...
Sau một vài năm ở Mỹ và đã quen hơn với vùng đất mới của họ, những người nhập cư Việt Nam đã chuyển đến các khu vực đô thị lớn để tạo ra các “biệt khu dân tộc” (ethnic enclaves) với những người Mỹ gốc Á khác...
Từ đợt đầu di tản sau biến cố 30/4/1975, chừng 125,000 người. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1975, khi bộ đội miền Bắc tiến vào Sài Gòn, Hoa Kỳ đã ra lệnh sơ tán ngay lập tức nhân viên Hoa Kỳ và hàng nghìn quan chức quân sự và ngoại giao của miền Nam Việt Nam. Các kênh truyền hình tin tức Mỹ đã phát đi những hình ảnh đau lòng về cuộc không vận hỗn loạn, trong đó có đám đông công dân miền Nam Việt Nam tuyệt vọng tràn ngập ngoài cổng Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Làn sóng đầu tiên đến vào năm 1975 như một phần của 140.000 người của Đông Dương được sơ tán ban đầu qua lệnh của Tổng thống Gerald Ford. Những người tị nạn đó, hầu hết đều có trình độ học vấn và nói được một ít tiếng Anh, đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt từ công chúng Mỹ mong muốn được xóa bỏ ít nhiều mặc cảm tội lỗi về việc quân đội Mỹ đột ngột rời khỏi miền Nam Việt Nam. Đến năm 1978, kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái và sự chào đón nồng nhiệt này không còn nữa (1).
Giữa những hình ảnh cánh đồng hoa anh túc và những chiến hào sũng nước trong ký ức chung về Thế Chiến I, ít ai để ý đến sự hiện diện của các trại tù binh chiến tranh ở vùng đảo British Isles. Nhưng trong suốt cuộc chiến, Anh đã giam giữ gần 116,000 người trong các trại tù binh trên khắp đất nước, từ Cung điện Alexandra ở London đến một trang trại cũ trên Đảo Isle of Man. Trong số đó có một võ sĩ đấm bốc và nghệ sĩ biểu diễn xiếc người Đức tên là Joseph Pilates.
Cựu Trung tướng Phạm Quốc Thuần đã qua đời vào lúc 8 giờ sáng ngày Thứ Sáu 18-8-2023 tại Fountain Valley, California, hưởng thọ 98 tuổi. Ông sinh ngày 31-8-1926 tại Hà Đông. Trung tướng Phạm Quốc Thuần giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Bộ Binh (Thủ Đức) ngày 20-8-1969...
Bát Nhã Tâm Kinh của Phật học có câu “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Từ “sắc” trong câu kinh dùng để chỉ vật chất và những gì có hình tướng. Còn “không” là cái không bao giờ xẩy ra. Từ “không” được nhắc đến nhiều trong đạo Phật chính là “Chân Không Diệu Hữu”. Như vậy, “sắc tức thị không, không tức thị sắc” là nói đến “thật tướng” của vạn pháp và đấy chính là “vô tướng”, từ “cái không” do nhân duyên hợp lại thành “cái có”. Và, ngược lại, từ “cái có” tất yếu trở về “cái không”. Chu kỳ ấy là bất diệt, cứ tiếp nối nhau đến vô tận. Đó là cách tiếp cận theo triết học tôn giáo hay siêu hình học. Nhìn từ nhãn quan vật lý học, “cái có” có thể đến từ “cái không” được không? Theo thuyết Big Bang thì có vẻ là như thế. Vật chất tồn tại như ta nhìn thấy – hàng tỉ tỉ dải thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ tỉ ngôi sao, mỗi ngôi sao là một hệ thái dương có thể có nhiều hành tinh, mỗi hành tinh là một thế giới như quả đất chúng ta đang sinh sống – đến từ “cái không có gì”,
Nhân Lễ Tưởng Niệm Nhị vị Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy và Nguyễn Văn Bông được tổ chức ngày hôm nay 13/08/2023 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng tiểu bang Victoria-Úc, Ban Tổ Chức có nhờ tôi chia sẻ đề tài “Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy nhà hoạt động chính trị chân chính”, dưới đây là một số điều tôi được biết về cuộc đời chính trị của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.