Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật!
Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Sức khỏe răng miệng có mối liên kết chặt chẽ với sức khỏe toàn bộ cơ thể, nên linh cảm của Mancini không phải là điều đáng ngạc nhiên. Mà điều bất thường nằm ở chỗ nha sĩ và bác sĩ đã liên lạc, chia sẻ thông tin với nhau.
Trong lịch sử, nha khoa và y khoa hoạt động như hai lĩnh vực song song: Nha sĩ chăm sóc răng, miệng, bác sĩ chăm sóc phần còn lại của cơ thể. Tuy nhiên, tình hình đang bắt đầu thay đổi, nhiều sáng kiến ở Hoa Kỳ và các quốc gia khác đang nỗ lực kết hợp chăm sóc toàn diện cả răng miệng và toàn bộ cơ thể, để giải quyết hiệu quả hơn các bệnh như tiểu đường, bệnh tim mạch, thay khớp và nhiều vấn đề khác. Mặc dù mối quan hệ chính xác giữa sức khỏe của răng miệng và các vấn đề sức khỏe khác trong cơ thể chưa được tìm hiểu rõ ràng, và đôi khi còn làm dấy lên nhiều tranh cãi, nhưng các chuyên gia đều đồng ý rằng có những mối liên kết không nên bỏ qua.
Trong những năm gần đây, các chuyên viên nha khoa đã bắt đầu làm việc tại các phòng khám y tế; các bác sĩ và nha sĩ đã thành lập một hội chuyên gia để khuyến khích hợp tác làm việc cùng nhau; và xuất hiện một loại hình phòng khám mới có cả nha sĩ và bác sĩ cùng làm việc.
Stephen E. Thorne IV, nhà sáng lập và CEO của Pacific Dental Services, có trụ sở tại Irvine, California, cho biết: “Chúng ta đang ở thời điểm then chốt – tôi gọi đó là thời hội nhập – khi nha khoa không còn được coi là một lĩnh vực riêng biệt, mà sẽ trở thành một phần quan trọng của hệ thống chăm sóc sức khỏe cơ bản.”
Răng miệng bệnh thì thân cũng không được khỏe
Có một loạt các vấn đề về sức khỏe răng miệng có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của toàn bộ cơ thể. Trước hết, ba vấn đề nha khoa phổ biến như sâu răng, mất răng và bệnh hư lợi (periodontal disease) đều liên quan đến bệnh tim – nguyên nhân gây tử vong hàng đầu tại Hoa Kỳ. Ellie Campbell, một bác sĩ gia đình tại Cumming, Georgia, và là thành viên trong hội đồng quản trị của Học viện American Academy for Oral Systemic Health, cho biết: “Đối với tôi, yếu tố nguy hại tiềm ẩn hàng đầu cho bệnh tim là sức khỏe răng miệng.”
Bệnh hư lợi, tình trạng viêm nhiễm và nhiễm trùng nướu và xương hàm, xương chân răng là thủ phạm chính. Gần một nửa số người trưởng thành từ 30 tuổi trở lên mắc bệnh hư lợi; ở tuổi 65, tỷ lệ này tăng lên khoảng 70%. Ở giai đoạn đầu, tình trạng sẽ mới chỉ là viêm nướu (gingivitis), nướu bị sưng và có thể chảy máu. Nếu không kịp thời điều trị, bệnh có thể tiến triển thành nhiễm trùng nướu (periodontitis), một tình trạng nghiêm trọng hơn khiến nướu có thể bong ra khỏi răng. Đây là căn bệnh phổ biến thứ sáu ở con người.
Nhiễm trùng nướu có liên quan đến hàng loạt bệnh lý ảnh hưởng toàn bộ cơ thể: đau tim, đột quỵ, suy tim, tiểu đường, viêm nội tâm mạc (endocarditis), bệnh thận mãn tính, viêm phổi tái phát (recurrent pneumonia), bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (chronic obstructive pulmonary disease), viêm dạ dày, bệnh phong thấp (rheumatoid arthritis), ung thư và suy giảm trí tuệ (cognitive impairment).
Những thói quen xấu, bao gồm sử dụng thuốc lá, uống rượu bia và chế độ dinh dưỡng nhiều đường, cũng ảnh hưởng đến sức khỏe răng miệng, làm tăng nguy cơ sâu răng và hầu hết các bệnh lý về răng miệng, đồng thời cũng có liên quan đến các bệnh như ung thư, bệnh hô hấp mãn tính và tiểu đường.
Năm 1837, có hai bác sĩ đề nghị rằng sinh viên y khoa tại trường Đại Học Maryland cũng nên được dạy về nha khoa. Tuy nhiên, các viên chức của trường đã từ chối đề nghị này. Theo Andrew I. Spielman, một nhà sử học về y khoa và là bác sĩ chuyên phẫu thuật nha khoa tại Trường Nha Khoa thuộc Đại Học New York, vào thời điểm đó, y khoa không muốn liên quan gì đến nha khoa. Lý do là vì thời đó, nha sĩ thường không có giấy phép hành nghề và cũng chẳng được đào tạo đầy đủ. Ông giải thích: “Có rất nhiều nha sĩ thời đó là lang băm. Lang băm khét tiếng luôn.”
Bị từ chối, hai bác sĩ Horace Hayden và Chapin Harris đã quyết định thành lập trường đào tạo nha khoa đầu tiên trên thế giới: Trường College of Dental Surgery ở Baltimore. Ngày nay, nha khoa là một ngành nghề được kiểm soát nghiêm ngặt, và Hoa Kỳ có 73 trường nha khoa được công nhận chất lượng.
Campbell cho biết, mặc dù được đào tạo khác nhau, nhưng cả bác sĩ và nha sĩ đều hiểu rõ tầm quan trọng của sức khỏe răng miệng đối với sức khỏe toàn bộ cơ thể.
Theo nha sĩ Mancini, các nha sĩ thường được yêu cầu kiểm tra răng miệng bệnh nhân trước khi bác sĩ tiến hành một số phương pháp điều trị nhất định. Ông giải thích, các bệnh về răng miệng có thể gây ra những tác động tiêu cực đối với sức khỏe của bệnh nhân, đặc biệt là khi họ đang trong quá trình điều trị các bệnh lý nghiêm trọng như ung thư.
Các rào cản đối với việc chăm sóc toàn diện
Nhưng cùng hợp tác làm việc để cải thiện sức khỏe của bệnh nhân không đơn giản như nhiều người vẫn nghĩ. Một thập niên trước, chính phủ liên bang đã thuê Tổ chức National Network for Oral Health Access (NNOHA) để tiến hành một chương trình thử nghiệm kết hợp các trung tâm chăm sóc sức khỏe răng miệng và sức khỏe cơ bản lại với nhau. Irene Hilton, nha sĩ của Sở Y Tế Công Cộng San Francisco và là người tư vấn về nha khoa cho tổ chức NNOHA, cho biết ba rào cản đối với việc kết hợp đã trở nên rõ ràng.
Một trong số đó là việc thanh toán cho chăm sóc sức khỏe và chăm sóc nha khoa không thống nhất và không liên kết với nhau. Trong khi hơn 90% người dân Hoa Kỳ có bảo hiểm y tế, chỉ có 77% người từ 19 đến 64 tuổi có bảo hiểm nha khoa, thường được bán riêng biệt so với bảo hiểm y tế. Dịch vụ bảo hiểm y tế lớn nhất nước – chương trình Medicare liên bang – thường không bao gồm các dịch vụ nha khoa, và gần một nửa số người từ 65 tuổi trở lên không có bảo hiểm nha khoa.
Điều đó gây ra vấn đề cho những bệnh nhân cần phẫu thuật thay thế khớp, sẽ được bảo hiểm chi trả, nhưng họ lại không đủ khả năng chi trả cho các dịch vụ nha khoa cần phải thực hiện trước khi thay khớp.
Rào cản thứ hai là các nha sĩ và bác sĩ không được đào tạo thường xuyên để làm việc cùng nhau.
Sinh viên nha khoa thường học về giải phẫu học, sinh lý học và các ngành học khác liên quan đến toàn bộ cơ thể, sau đó mới tập trung vào nha khoa. Tuy nhiên, các bác sĩ y khoa lại hầu như không có học qua nha khoa. Một cuộc khảo sát năm 2009 cho thấy rằng 10% trường y khoa không cung cấp chương trình đào tạo về sức khỏe răng miệng, và 69% có cung cấp nhưng thời lượng dành cho chủ đề này không tới 5 giờ đồng hồ.
Vấn đề thứ ba là cơ sở hạ tầng. Trong hầu hết các trường hợp, hồ sơ sức khỏe điện tử mà các bác sĩ y khoa sử dụng không tương thích với hồ sơ mà nha sĩ sử dụng, cho nên việc chia sẻ thông tin điện tử giữa 2 ngành là điều không thể. Tương tự như vậy, các phòng nha khoa thường không được tích hợp với các phòng khám y tế, nên việc hợp tác và trao đổi thông tin giữa bác sĩ-nha sĩ cũng không được tạo điều kiện thuận lợi.
Tình hình ở những nơi khác trên thế giới cũng không mấy khác biệt. Vào năm 2021, Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) lưu ý rằng các bệnh răng miệng là vấn đề sức khỏe cộng đồng toàn cầu ảnh hưởng đến gần 3.5 tỷ người, và đã khuyến nghị nha khoa nên tập trung nhiều hơn vào việc phòng tránh, và kết hợp nhiều hơn với các dịch vụ chăm sóc cơ bản.
Trong một phần tư thế kỷ qua, rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh mối liên quan giữa sức khỏe răng miệng và sức khỏe toàn bộ cơ thể. Thí dụ, khi các nhà nghiên cứu theo dõi 15,456 bệnh nhân mắc các bệnh tim mạch từ 39 quốc gia trong gần 4 năm, họ phát hiện ra rằng những người bị mất nhiều răng nhất có nguy cơ bị đột quỵ, đau tim hoặc tử vong do bệnh tim mạch cao nhất. Tương tự, một nghiên cứu ở Hoa Kỳ theo dõi 7,466 người từ 44 đến 66 tuổi trong thời gian trung bình 14.7 năm phát hiện ra rằng những người bị nhiễm trùng nướu nặng có nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn những người không bị bệnh hư lợi hoặc chỉ bị viêm nướu nhẹ.
Năm 2015, Trường Nha Khoa của Harvard đã đưa ra sáng kiến hỗ trợ kết hợp hai lĩnh vực này – trong cả đào tạo, bảo hiểm và thực hành chuyên môn. (Sáng kiến này được tài trợ bởi các thương hiệu sản phẩm nha khoa và các công ty bảo hiểm y tế, và Thorne, CEO của Pacific Dental Services).
Jane Barrow, người dẫn đầu sáng kiến, cho biết: “Chúng tôi đã công bố các bài báo xác định mối liên kết giữa bệnh hư lợi và các bệnh tiểu đường, tăng huyết áp, mất trí nhớ, sinh đẻ khó khăn, trẻ sơ sinh nhẹ cân, sinh non, sẩy thai tự nhiên, và cả bệnh thận.”
Nhưng mối tương quan này lại không giống như quan hệ nhân quả, và các khoa học gia vẫn chưa xác định được mối quan hệ chính xác giữa bệnh hư lợi, căn bệnh ảnh hưởng đến hơn 11% dân số thế giới, và các bệnh khác ở toàn bộ cơ thể.
Nhiễm trùng nướu có mối liên kết với vi khuẩn trong hệ tuần hoàn máu và các tình trạng viêm nhiễm toàn thân, có thể ảnh hưởng đến các cơ quan như gan và tủy xương. Điều này có thể kích thích hoặc làm trầm trọng thêm các tình trạng khác. Ngoài ra, các vi khuẩn từ phần nướu bị nhiễm trùng cũng có thể di chuyển qua máu, đường hô hấp hoặc đường tiêu hóa, gây ra viêm nhiễm hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng viêm nhiễm ở các bộ phận khác của cơ thể.
Vào năm 2012, khi các hiệp hội chuyên ngành hàng đầu về bệnh hư lợi ở Hoa Kỳ và Châu Âu tập hợp một nhóm các chuyên gia toàn cầu để thảo luận, xem xét các nghiên cứu. Các chuyên gia đã kết luận rằng “về mặt sinh học thì có vẻ hợp lý” khi nói bệnh hư lợi làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và ảnh hưởng đến bệnh tiểu đường type 2 cùng với các căn bệnh khác. Nhưng tất cả cũng chỉ là “có vẻ hợp lý” (plausible).
Bảy năm sau, Liên đoàn Federation of Periodontology của Châu Âu và Liên đoàn World Heart Federation lại tập hợp các chuyên gia để xem xét các nghiên cứu mới về mối liên kết giữa bệnh hư lợi và các vấn đề về tim mạch. Và một lần nữa, dù khoa học lúc này đã đạt được một số tiến bộ trong việc xác định các cơ chế sinh học có thể giải thích cho mối liên kết này, các chuyên gia vẫn kết luận rằng những bằng chứng hiện tại vẫn chưa chứng minh được bệnh hư lợi thực sự gây ra đột quỵ, đau tim hay bất cứ vấn đề nào khác.
Nếu lật lại câu hỏi trên thì sẽ thành: liệu ngăn ngừa hoặc điều trị bệnh hư lợi có giúp ngăn ngừa các vấn đề về tim mạch không? Một số nghiên cứu quan sát cho thấy rằng chăm sóc tốt cho sức khỏe miệng, bao gồm đánh răng và làm sạch răng, sẽ tạo ra sự khác biệt. Thí dụ, một nghiên cứu ở Scotland theo dõi thói quen sức khỏe của 11,869 người từ 35 tuổi trở lên đã phát hiện ra rằng trong vòng 8 năm, những người ít đánh răng hơn gặp nhiều vấn đề về tim mạch hơn so với những người đánh răng hai lần mỗi ngày.
Điều đó vẫn không chứng minh được rằng việc ngăn ngừa bệnh hư lợi sẽ ngăn ngừa được các vấn đề về tim mạch: một số thói quen hoặc đặc điểm khác của nhóm người đánh răng thường xuyên có thể là yếu tố quan trọng. Mối quan hệ này khó có thể phân biệt, vì nhìn chung, những người chăm sóc răng miệng tốt thường cũng chăm sóc tốt toàn bộ cơ thể họ.
Theo một bài xã luận được công bố trên Tạp chí của Hiệp hội Nha khoa Hoa Kỳ năm 2018, không ai nên nói những điều tương tự như vậy. Tác giả của bài xã luận là một nhóm các nhà nghiên cứu về nha khoa và sức khỏe cộng đồng, cảnh báo rằng không nên phóng đại mối liên kết giữa sức khỏe răng miệng và toàn bộ cơ thể. Họ nhấn mạnh rằng, lý do chính để duy trì sức khỏe răng miệng tốt là vì răng miệng cũng có tầm quan trọng riêng.
Sau đó, một trong những người đóng góp cho bài xã luận, Bryan Michalowicz, nhà nghiên cứu nha khoa tại Viện HealthPartners ở Minnesota, đã dẫn đầu một nhóm chuyên gia xem xét hồ sơ y tế và yêu cầu bảo hiểm của 9,503 bệnh nhân, để xem liệu điều trị bệnh hư lợi có cải thiện kết quả sức khỏe của những người mắc bệnh động mạch vành, bệnh mạch máu não hoặc bệnh tiểu đường type 2 hay không.
Nhóm nghiên cứu đã báo cáo vào năm 2023 rằng, nhìn chung, những bệnh nhân mắc các bệnh tim mạch được điều trị nha khoa và theo dõi không có sự khác biệt về tỷ lệ lên cơn đau tim, đột quỵ, phẫu thuật cấy ghép mạch hoặc nong mở mạch so với những người không được điều trị. Tương tự, việc điều trị bệnh hư lợi cũng không giúp giảm đáng kể mức độ đường huyết ở bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường type 2.
Nhưng dữ liệu cho thấy có một số liên kết giữa sức khỏe răng miệng và sức khỏe toàn bộ cơ thể, đã đủ để khơi dậy nhiều nỗ lực kết hợp nha khoa và y khoa ở cấp cơ sở. Ngoài Học viện American Academy for Oral Systemic Health, tổ chức National Network of Healthcare Hygienists cũng giúp chuẩn bị cho những chuyên viên y tế muốn kết hợp sức khỏe răng miệng vào các hệ thống chăm sóc y tế.
Và tại California, doanh nghiệp của Thorne đang cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho những tương tác đó, bằng cách đưa các dịch vụ nha khoa và y tế về chung một mái nhà. Tháng 12/2023, Pacific Dental Services đã mở phòng khám nha khoa Culver Smiles Dentistry, chung một nơi với một phòng khám y tế. Đây là một trong 25 cơ sở y tế-nha khoa (dental-medical) dự kiến sẽ hoạt động thông qua một sự hợp tác giữa MemorialCare, một hệ thống y tế lớn ở Nam California, và Pacific Dental.
‘Bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra.’ Thorne cảm thấy thật điên rồ khi bấy lâu nay người ta lại coi miệng, hàm, và cổ họng là phần tách biệt với các phần còn lại của cơ thể. Nhưng tình hình đang thay đổi và cải thiện, vì các nhà lãnh đạo ngành y tế đang dần nhận ra rằng họ có thể cải thiện sức khỏe của bệnh nhân bằng cách kết hợp chăm sóc nha khoa vào chăm sóc cơ bản.
Nguồn: “Why Isn't Dental Health Considered Primary Medical Care?” được đăng trên trang Knowablemagazine.org.
Gửi ý kiến của bạn