Cách đây hơn 6 tuần lễ, chồng tôi bị bắt giữ vì tội buôn bán ma túy. Cảnh sát đãõ đưa chồng tôi về tận nhà để lục xét. Khi lục xét cảnh sát tìm thấy một lượng bạch phiến gần 100gram trong phòng làm việc của chồng tôi, cùng một túi nhỏ cần sa. Ngoài ra cảnh sát cũng tịch thu chiếc cân tay điện tử và một số các dụng cụ khác. Chồng tôi có cho biết là ông ta đã khai với cảnh sát là vì ghiền ma túy nên ông đã tích trữ số lượng đó để xử dụng. Tôi chỉ biết là chồng tôi hút thuốc, riêng việc ông ta có hút ma túy hay cần sa hay không thì tôi hoàn toàn không hề hay biết.
Nhà tôi gồm 3 phòng ngủ, từ ngày chồng tôi nghỉ việc, tôi hoàn toàn không để ýù đến việc làm và sự giao lưu của chồng tôi. Chúng tôi không có con cái, riêng bản thân tôi phải phụng dưỡng cha mẹ, nên ông bà cùng cư ngụ tại nhà của chúng tôi. Chồng tôi bị cáo buộc nhiều tội danh trong đó có tội buôn bán bạch phiến. Chồng tôi hiện đang bị giam giữ chờ ngày xét xử .Tôi nghe nói rằng nếu một người xử dụng nhà của chính mình để làm nơi cất giấu, hoặc buôn bán ma túy thì căn nhà đó có thể bị tịch thu.
Xin LS cho biết là trong trường hợp vừa nêu trên liệu chính phủ có tịch thu căn nhà của tôi hay không"
Trả lời: Điều 13(2) của “Đạo Luật quy định việc Tịch Thu Tiền Thu Nhập do Tội Phạm [hình sự mà có]ï” (the Confiscation of Proceeds of Crime Act 1989) quy định rằng: Khi một người bị kết buộc về “tội buôn bán ma túy” (drug trafficking offence,” tòa có thể đưa ra án lệnh tịch “thu tài sản bại hoại” do tội phạm mà có.
“Tài sản bại hoại” (tainted property) được định nghĩa gồm tài sản được xử dụng vào việc phạm một tội phạm nghiêm trọng.
“Tội nghiêm trọng” (a serious offence) gồm những tội có thể bị truy tố và bị xét xử bởi bồi thẩm đoàn.
Trong vụ R v. Wealand [2002]. Trong vụ đó, vào ngày 28.7.1998, ông Wealand và vợ của ông ta cùng đứng tên chung để mua một căn Unit nằm trên lầu của một “tiệm bán báo” (newsagency) với tư cách là “người có quyền sở hữu chung” [joint tenants]. Họ đã trả $30,000.
Vào ngày 12.2.2001, cảnh sát tại Wagga Wagga đã xin trát lệnh để lục xét căn hộ này. Ông Wealand đã có mặt trong thời gian cảnh sát lục xét. Thực ra, ông đã hướng dẫn cho cảnh sát đi vào từng phòng xem xét, đồng thời thú nhận việc dùng căn hộ này để trồng cần sa.
Ông Wealand đã mua tất cả các dụng cụ tại Melbourne, và ông đã bắt đầu việc trồng cần sa vào cuối năm 1998. Ông ta đã khai rằng mục đích đầu tiên của việc trồng cần sa là để có đủ cho ông và vợ của ông hút. Vào lúc đó ông và vợ của ông hút cần sa hàng ngày. Thực ra, ông cũng đã khai rằng việc hút cần sa một phần là để làm mất cảm giác đau đớn, “làm dịu bớt cơn đau do chứng viêm khớp” (to alleviate pain from arthritis,” và một phần là để thay thế cho sự nghiện rượu. Bằng chứng đã được trưng dẫn để chứng minh ông ta đã bị chứng viêm khớp sau một tai nạn xe gắn máy. Ông Wealand cũng đã khai rằng cha của ông là một người nghiện rượu và ông sợ rằng ông cũng sẽ bị nghiện rượu. Ông Wealand đã thú nhận rằng ông đã bán 3 đợt thu hoạch cần sa và nhận được số tiền từ $4,000 đến $5,000. Tuy nhiên, phí tổn mà ông mua dụng cụ tốn đến gần $6,000.
Cảnh sát đã cáo buộc ông Wealand về 4 tội danh, 2 tội liên hệ đến việc trồng cần sa và 2 tội liên can đến việc bán cần sa. Theo sự quy định của luật lệ thì hình phạt tối đa cho mỗi tội có thể lên đến 10 năm.
Ông Wealand nhận tội và Thẩm Phán Woods đã xử mỗi tội là 3 năm tù ở với thời gian thụ hình tối thiểu là 18 tháng, và tất cả các bản “án được thụ hình cùng lúc” (concurrent sentence). Điều này có nghĩa là ông ta chỉ ở tổng cộng là 18 tháng.
Riêng vợ của ông Wealand vì biết được việc trồng cần sa của chồng nên bà ta đã bị cáo buộc về tội trồng và sở hữu cần sa. Bà đã nhận tội. Nhưng cuối cùng khi bà kháng án, Tòa chỉ buộc bà phải giữ tánh hạnh tốt không được tái phạm trong 12 tháng.
Ông Wealand đã bị kết buộc về những tội buôn bán ma túy nghiêm trọng. Công Tố Viện bèn thỉnh cầu tòa ban hành “án lệnh tịch thu” (a forfeiture order) để tịch thu căn hộ của ông ta cùng các dụng cụ trồng cần sa. Ông Wealand không phản đối việc tịch thu các dụng cụ trồng cần sa, nhưng đã phản đối việc tịch thu căn hộ của ông ta.
Thẩm quyền của Tòa về việc đưa ra án lệnh nhằm tịch thu các “tài sản bại hoại” được quy định trong điều 18 của Đạo Luật. Điều này đã quy định rằng: Nếu một người bị kết buộc một tội phạm nghiêm trọng và Công Tố Viện thỉnh cầu Tòa đưa ra án lệnh để tịch thu những tài sản nào đó và nếu Tòa thỏa mãn rằng “tài sản bại hoại đó” được xử dụng vào việc phạm tội thì Tòa có thể đưa ra án lệnh xung công.
Đồng thời Tòa cũng xét xem sự khó khăn có thể xảy ra cho gia đình hoặc những cá nhân nào đó khi đưa ra án lệnh để từ khước việc đưa ra án lệnh này. Dựa vào các sự kiện được nêu lên trong bản cáo trạng, thì căn hộ này của ông Wealand bị xem là “tài sản bại hoại” vì ông ta tậu mãi căn hộ này để trồng cần sa.
Tuy nhiên, thẩm Phán Woods đã từ chối đưa ra án lệnh tịch thu vì xét đến sự khó khăn của gia đình ông Wealand.
Vào lúc xét xử, Ông Wealand được 47 tuổi, chưa bao giờ có tiền án. Hai vợ chồng có một “tiệm bán hoa” (a florist business), nhưng họ đã bán vào năm 1997. Người con trai riêng của ông ta bị chứng hoại não bẩm sinh. Việc nuôi dưỡng một người con bị tật nguyền đã ảnh hưởng toàn bộ đến sinh hoạt của gia đình. Thêm vào đó, ông Wealand đã bị mất việc lái xe buýt ngay sau khi ông bị bắt. Vì thế vợ của ông là người độc nhất nuôi dưỡng gia đình. Hơn nữa số tiền mua căn hộ đó không phải do tiền kiếm được từ những hành vi hình sự. Vì thế Tòa đã từ chối đưa ra án lệnh tịch thu. Công Tố Viện bèøn kháng án. Nhưng Tòa Kháng Án Hình Sự đã bác đơn kháng án vì cho rằng Thẩm Phán Woods có toàn quyền hành xử “quyền nhiệm ý” (discretionary power) theo luật định của ông ta để từ khước việc đưa ra án lệnh tịch thu này.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn bà có thể thấy được rằng tòa có toàn quyền đưa ra án lệnh để tịch thu những tài sản tậïu mãi được do hành vi tội phạm, hoặc những tài sản được xử dụng để thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, việc đưa ra án lệnh để tịch thu tài sản cón tùy thuộc nhiều yếu tố khác như vừa trình bày ở trên.
Căn cứ vào những sự kiện mà bà đã nêu lên trong thư, chúng tôi nghĩ rằng tòa sẽ không đưa ra án lệnh để tịch thu căn nhà của bà, vì căn nhà của bà tậu mãi không do tiền kiếm được từ những hành vi tội phạm, hơn nữa bà đã hoàn toàn không hay biết, hay nói một cách khác bà đã không chứa chấp hoặc dùng căn nhà đễ thực hiện các tội phạm hình sự.
Nếu bà còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp tường tận hơn.