Hôm nay,  

Về “Phiến Hạ” – thơ Trần Hạ Vi

20/06/202516:34:00(Xem: 254)

Giới thiệu sách mới

492021490_2406337593068834_6773298668313968800_n

Tôi sẽ nói gì về Phiến Hạ khi mùa hè chưa tới? Khi biển đã rộn ràng khơi nồng trong gió?

Tôi có thể gợi khêu gọi nắng lên nhân quần khi lạnh gây vẫn u ẩn không gian?

Có lẽ tôi sẽ mơ một khắc giây hội tụ, khát vọng liền tâm. Những mối dây xoắn gút cột thắt linh hồn. Ôi tôi mong bức đứt, chặt phăng mắt xích trói ghì.

Thế mà cứ từng bước, tôi bắt gặp tôi nhặt nhạnh từng mảnh vỡ, thu tóm những sợi dây đứt khúc và bắt đầu bện lại thành một mạng lưới ôm gọn lấy tôi. Tôi mất hút trong ấy như một vật thể không hình dáng. Chỉ còn những ô mắt cá dai dẳng quấn lấy, cột trói mình tôi. Tôi nhìn ra thế giới bên ngoài qua mắt lưới. Tôi hoan hỉ ôm chầm mạng lưới. Mạng lưới tình yêu. Không hối tiếc. Tôi dứt khoát. Tôi chỉ sống để yêu...

Em sẽ ngồi với anh thật lâu
Và hôn anh như trên đời không còn ai nữa
(NỤ HÔN MÙA THU)

                giữa muôn trùng xa cách
em không hẹn kiếp sau
               
chỉ có thể hứa
vĩnh viễn không hối hận
vĩnh viễn không quay đầu
                (LỜI HỨA)

Cuối tháng tư, trong khí hậu u ám bên ngoài bật dậy niềm ẩn mật bên trong, tôi đọc bản thảo “Phiến Hạ” của nhà thơ Trần Hạ Vi. “Phiến Hạ” gồm 81 bài thơ, đa số là thơ tự do và cũng đa số với chủ đề Tình Yêu. Tình Yêu được viết hoa vì người nữ sĩ ấy sống chết bằng trái tim hực lửa dâng tình, cho dù thế giới có hững hờ với cô. “Thế giới” ở đây không hẳn là cõi nhân gian ngoài kia mà có thể chỉ xoay quanh một số người đàn ông, những người đàn ông đã bước vào tâm hồn cô. Tuy vậy, khí hậu thơ tạo cho người đọc một nghi tình, người yêu của cô có thể chỉ là cái bóng, một người không bao giờ có thật/hay có thật [?], một người cô chưa bao giờ gặp mặt/hay đã gặp mặt [?]. Một mối tình ảo thêu dệt trên mạng xã hội chăng? Tôi bỗng nhớ đến hai câu thơ trong bài “Mon rêve familier” của Paul Verlaine mà tôi muốn sửa chữ “đàn bà” thành “đàn ông” cho xứng hợp với tâm tình của tác giả ở đây, “Tôi thường mơ một giấc mơ lạ lẫm và thấm thía / Về một người đàn ông chưa hề biết, mà tôi yêu, và yêu tôi” (Je fais souvent ce rêve étrange et pénétrant / D'un homme inconnue, et que j'aime, et qui m'aime). Cô yêu hoài một người không thấy, inconnue? Có thể lắm.

Chìm đắm trong một tình yêu ảo ảnh
Mơ màng nhập nhòa mông lung
Không dạng không hình
...
Tình yêu của chúng ta giữ trong chiếc hộp bé xinh
Hai mươi bốn giờ một ngày
Sẽ sống
Miễn còn pin điện thoại
(ẢO MÊ TÌNH)

người ta xài ma túy
em cũng xài ma túy
ma túy của em là người
nhưng em không cần sex
em chỉ cần say
trong ảo tưởng diễm tình
trong lời thơ huyễn hoặc
lên mây
lên mây
(MA TÚY CỦA HẠ VI)

tìm về thế giới em tự tạo nên
Beauty and the Beast
quả hồng mềm
núm vú cương cứng

hồi sinh từ sạch trơn quên lãng
hãy để em yêu
hãy để em yêu anh
the Beast của em
(BEAUTY AND THE BEAST)

Hạ Vi dùng lối viết lặp lại, một chữ, một nhóm chữ, nhiều lần trong một bài thơ. Một kỹ thuật viết để nhấn mạnh mà cũng có thể tương tự hiện tượng nói nhịu, khi một người quá dao động vì áp lực bất thình lình. Sự lặp lại tới lui làm sự kiện chốc lát trở nên bức thiết, căng thẳng hơn, tạo cho người đọc cảm giác treo ngược đợi chờ,

cô ấy nói yêu anh đến thiên thu
còn tình yêu của em
ở đâu
ở đâu
(MẶT MỘC)

anh còn tiếc nuối tình yêu người đàn bà
em không ghen không nổi đóa
cát xa tuyết xa cát xa tuyết xa
(TÌNH CA NOVA SCOTIA)

Thơ Hạ Vi có khi tưởng chỉ nói đến tình yêu nam nữ đơn thuần nhưng thật ra cô dẫn đến những vấn đề sâu thẳm hơn, những khúc mắt nhân sinh, những vỏ bọc, những chiếc áo khoác, những mặt nạ làm thế giới trở nên xa cách, làm tình nhân rẽ chia,

Căn phòng bí mật có nhiều cánh cửa
Mở khóa một lần
lại thêm cửa bên trong
...
Anh - củ hành mộc mạc
chiều nay
cởi thêm một lớp
làm mắt em cay...
(CỦ HÀNH)

                Cuối con đường có một ngôi nhà
Trong đó có một người đàn bà
Của anh
và không phải của anh
(SỞ HỮU)

Bắt gặp sự cuồng nhiệt và tha thiết trong thơ Hạ Vi không khỏi nhớ đến Juliet của Shakespeare nghiêng người trên ban công dáo dác kiếm tìm Romeo, O Romeo, Romeo! wherefore art thou Romeo?  Ngày và đêm, sáng và tối thường được dùng như một mô típ trong vở kịch Romeo Juliet và cũng thường thấy xuất hiện trong thơ Hạ Vi. Có thể nói thơ tình Hạ Vi là hình ảnh một Juliet thường trực đứng ở ban công đợi chờ, một ban công sững đứng với thời gian, frozen in time...

Em nhớ anh
cồn cào cội nguồn thúc thôi triền khao khát
Em mong anh
mơ lắm một bàn tay!
 
Yêu em đi
ngoài kia ngày vẫn là ngày
Đêm vẫn là đêm, chỉ chúng mình là bỏng rát
Cuộn trào trong từng cơn khát
Khát anh khát em
quằn quại đam mê khát tình...
(TÌNH NHÂN ƠI)

Và cô cho mình ưu điểm hơn cả AI (Artificial Intelligence) xứng đáng với người yêu đến kỳ cùng,

Em không phải AI
Khi em chết đi thơ sẽ biến thành AI
Sex với anh mỗi ngày
(SEX VÀ AI)

Một trong những bài thơ trong tập “Phiến Hạ” khiến tôi thích thú ngay khi đọc những câu đầu như thế này:

tự trái mận có bài thơ
nhưng bài thơ không phải về trái mận
tự anh có em
(TỰ THƠ)

Bài thơ thật thơ mộng và đơn giản, thế mà không đâu những luồng sóng ba đào dội về. Chỉ mấy lời mà đào sâu khôn tả vạn thể biển dâu. Tại sao “tự anh có em”? Thế giới hiện hữu nhiệm màu của người nữ bắt đầu từ một chiếc xương sườn của người đàn ông lúc sáng thế? Thế giới này sẽ như thế nào nếu không có Anh. Và Em. Hay từ thinh không, hễ có âm ắt phải có dương. Bất ngờ từ trái mận nảy sinh bài thơ, nhưng nói trái mận chỉ là một cách nói, nói trái mận để liên tưởng tới người yêu dấu. Đẹp của thi ca là ở chỗ đó, sự liên tưởng. Liên tưởng dẫn đến bồng phiêu, nếu mượn lời Bùi Giáng, “Hoặc phiêu bồng tâm sự tân toan lệ / Hoặc phiêu bồng tâm ý du dương tiếu / Hoặc phiêu bồng tâm mộng trúc loạn ty “. Từ Trái mận => Bài thơ => Anh => Em. Tình yêu diệu kỳ vì nó không có điểm khởi đầu và nơi kết thúc, một vòng tròn không nguyên cớ, theo đuổi để bắt gặp hoang vu. Hãy đọc nguyên bài thơ để thấy nhị nguyên sấp ngửa của từng cặp đôi đau thương/hạnh phúc, chiến tranh/hòa bình, hủy diệt/xây dựng, tốt/xấu. Bao giờ chúng ta mới thôi bị trì kéo, giằng co giữa hai bờ chọn lựa? Thi sĩ trở nên hiền giả chăng, bởi chưng nhân duyên có thể chỉ là một điều ngẫu nhiên rất mực đơn sơ, con chó trầm cảm / tự con mèo xù lông, hay bởi vì bao mối xích xiềng trói buộc phía sau?

TỰ THƠ
tự trái mận có bài thơ
nhưng bài thơ không phải về trái mận
tự anh có em
 
nhưng em không thuộc về anh
tự đau thương có hạnh phúc
tự chiến tranh có hòa bình
 
loài người loay hoay
hủy diệt và xây dựng
cái tốt và cái xấu
 
con chó trầm cảm
tự con mèo xù lông

Tập thơ Phiến Hạ, không chỉ nói đến tình yêu, một số bài mang tính cách thời sự như chiến tranh Ukraine, Afghanistan, những mong nhớ về mẹ, về quê hương. Sự xa cách địa lý không làm vơi đi lòng nhớ thương đến chốn cũ yêu dấu, có lẽ không riêng gì đối với Hạ Vi mà cũng là tấm lòng chung của những người con Việt xa xứ.

Thèm nghe một tiếng cằn nhằn
Lời kinh mẹ đọc tiếng răn ngọt lòng
Thèm thêm miếng bưởi miếng bòng
Tướp tươm nước bọt trưa chồng bóng sân
(THÈM)

Ký ức của em đâu
sinh ra giữa mùa không bom đạn
chỉ đói nghèo làm bạn
quấn mãi đôi bàn chân
(SINH SAU 1975)

oOo
 
Tôi quen biết nhà thơ Trần Hạ Vi cũng như thơ của cô qua mạng xã hội FaceBook mấy năm gần đây. Được biết cô là một Tiến sĩ ngành Tài chánh và hiện là giáo sư Đại học StFX, Nova Scotia, Canada. Một trí thức bên ngoài nước nhưng bao giờ cũng yêu tiếng Mẹ, sống chết với ngôn ngữ Việt, dù Hạ Vi thừa khả năng du nhập với tiếng nói, văn hóa nước người. Người đọc có thể ngạc nhiên hỏi tại sao những con số khô khan trong lãnh vực tài chánh lại trở thành những câu thơ trữ tình diễm lệ? Nhà thơ Hạ Vi tâm sự như thế này: “Có những khoảnh khắc là bất tử, có những lời nói cứ ngỡ 'gió cuốn mây trôi' nhưng lại chìm vào mê đắm lòng, ta giữ lấy, ta quyện quấn, ta trân quý, ta nắm níu như chiếc phao cứu sinh duy nhất trong bể đời chìm nổi. Có những kỷ niệm tưởng đã lãng quên mãi mãi lại trỗi về mãnh liệt từ hư không. Chỉ là một đêm mưa, ngày ấy, đêm nào. Người tình nằm lơ đãng nói vài câu giữa tiếng mưa gió lá rơi rụng bên ngoài.

Sau tập thơ “Vi” xuất bản năm 2020, thơ tự do vẫn là sở trường của Hạ Vi. Tuy nhiên ý, từ đã sâu sắc, cô đọng, và trực diện với hiện thực hơn. Với “Phiến Hạ”, cô vẫn là nhà thơ của tình yêu nhưng chữ nghĩa tiến gần đến sự bộc lộ, thẳng thắn du hành vào vùng tiềm thức không cần che đậy, phát huy rực rỡ hơn. Điều đó làm thơ Hạ Vi gần gũi với người đọc, khiến chúng ta nghe như tâm sự của chính mình.

Nếu Annie Ernaux có thể viết những câu chuyện đời mình
Giọng văn khô khan sắc lạnh
Và được giải Nobel văn chương
Thì tại sao nàng không được quyền
Viết câu chuyện của anh và nàng
Tất nhiên
Theo cách nàng tưởng tượng
(CÂU CHUYỆN CỦA NÀNG)

Quả vậy, Hạ Vi đã dẫn người đọc theo một cách rất riêng của nàng từ đầu đến cuối tập thơ, để lại trong lòng người đọc một lửng lơ nghi vấn: Người yêu của nàng, thật hay ảo? Hãy để đó là một ẩn mật phiêu nhiên thơ mộng.

-- Vũ Hoàng Thư
Cuối tháng tư, 2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
Cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư là một tác phẩm ám ảnh và đầy trăn trở, khiến tôi phải đọc đi đọc lại và phải suy ngẫm nhiều lần. Vì sao? Vì mỗi khi khép sách lại, tôi luôn có cảm tưởng dường như mình đã bỏ sót một điều gì đó…
Viết cho thế hệ trẻ là quan tâm lớn của nhiều nhà văn gốc Việt. Và mới trong tháng qua, nhà văn Trần Ngọc Ánh vừa ấn hành 2 bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp của tập hồi ký “Ba, Con Không Muốn Là Người Cộng Sản.” Bản dịch sang tiếng Anh do dịch giả Kim Vũ từ California thực hiện, nhan đề “Daddy, I don't Want to be a Communist.” Bản dịch sang tiếng Pháp do dịch giả Bảo Hưng từ Paris thực hiện, nhan đề “Papa, Je ne voudrais pas être communiste.” Cả hai bản dịch này ấn hành chung trong cuốn sách dày 184 trang. Bìa sách thực hiện bởi hai họa sĩ: Trần Nho Bụi và Phan Trường Ân. Một số tranh trong sách là từ họa sĩ Nguyễn Tư.
Có những cách để tưởng niệm 50 năm ngày Miền Nam tự do sụp đổ. Trong khi những cuộc hội thảo, chiếu phim, nhạc hội... do cộng đồng tổ chức sôi nổi khắp những tuần lễ trong tháng 4/2025, nhà văn Phan Nhật Nam và dịch giả Kim Vu có một cách lặng lẽ hơn: Dịch giả Kim Vu trong tháng Tư 2025 đã ấn hành tác phẩm tiếng Anh “The Sound Of A Suffering Land” – tuyển tập bản dịch 8 truyện của nhà văn Phan Nhật Nam.
Thơ mộng, uyên bác, thấu suốt Phật lý... Những dòng thơ của Thầy Tuệ Sỹ hiện lên trang giấy như các dãy núi nơi những đỉnh cao ẩn hiện mơ hồ giữa các vầng mây. Do vậy, dịch thơ Thầy Tuệ Sỹ qua tiếng Anh cũng là một công trình lớn, khi phải cân nhắc từng chữ một để giữ được cái thơ mộng, cái uyên bác, và cái nhìn thấu suốt ba cõi sáu đường của một nhà sư thiên tài, độc đáo của dân tộc. Hai dịch giả Terry Lee và Phe X. Bạch đã làm được phần rất lớn trong việc giới thiệu thơ của Thầy Tuệ Sỹ cho các độc giả trong thế giới Anh ngữ.
Mặc dù chỉ mới ba năm trôi qua kể từ khi bà Merkel rời nhiệm sở, nhưng thế giới đã thay đổi quá nhiều đến mức mà chức thủ tướng của bà đã được cảm thấy như nó thuộc về một thời đại khác. Cuốn hồi ký mới của bà cho thấy bà bình tâm với những quyết định đã đưa ra, bao gồm cả những quyết định bị phê phán nghiêm khắc nhất.
Nhà thơ, nhà báo Phạm Chu Sa đã tổ chức một buổi ra mắt hai tác phẩm trong vòng thân hữu tại tư gia của họa sĩ Nguyễn Đình Thuần chiều Thứ Sáu 2/5/2025. Tập thơ nhan đề “Tình Không” -- ấn hành cuối đời, gom lại tất cả các bài thơ tình của nhà thơ trong đó có 36 bài thơ đã đăng trước 1975 trên các tuần báo Khởi Hành, Tuổi Ngọc và các tạp chí Văn, Vấn Đề... và nhiều bài thơ tình gần đây. Cuốn thứ nhì là hồi ức “Chuyện Làng Văn” về các mảng đời trước và sau 1975 của 50 văn nghệ sĩ mà tác giả có cơ duyên thân tình.
"Mỗi người đến thế giới này như một kẻ xa lạ, không phải vì họ xa lạ mà bởi vì họ được nhìn bởi người khác, trong đó có các nhà văn, như kẻ xa lạ. Bi kịch của con người là ở chỗ họ quá khác nhau, ở các học thuyết và các niềm tin, ở các quyết định và hành động, nhưng sâu thẳm họ giống nhau khi rắp tâm đi tìm sự thật cuối cùng. Không có công lý và sự thật phổ biến cho mọi trường hợp, và con người luôn luôn chọn đứng về một phía, và đó là bi kịch và hài kịch của họ. Những xung đột giữa người và người, giữa các quốc gia, các chủ nghĩa, đỉnh cao là chiến tranh, ở mức cá nhân là hận thù, những xung đột ấy chỉ có hy vọng hóa giải khi con người nhìn thấy sự thật phía sau câu chuyện lịch sử, những động cơ tâm hồn bên dưới sự thật. Sự hiểu biết ấy, và sự vui thú sinh ra từ hiểu biết ấy, làm nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.