Trung Quốc ( TQ ). Dân số trên 1 tỷ 2 người, nhân công rẻ trong sản xuất, hàng hoá tràn ngập các nước Đông Nam Á, Tây Aâu, Bắc Mỹõ giá bán rẻ như cho, mà nói kinh tế TQ suy, bàn dân thiên hạ ít ai đồng ý. Nhưng các kinh tế gia, những nhà kinh doanh, những nhà chuyên khảo sưu khảo về TQ sự vu; những nhà chuyên môn ấy nhứt định đi sâu đi sát TQ hơn người thường. Nhận định chuyên môn về TQ đó được tờ báo cũng chuyên môn về kinh tế tài chánh Mỹ, làï Wall Street Journal, đi một một bài dài phóng sự tiêu biểu, làm nhiều nước sững sốt: TQ suy kinh tế. Suy vì ba biến động tương tác, tạo thành thành động lực làm cho TQ mất vị thế của một nước nhân công rẻ, thu hút đầu tư thế giới mạnh, sản xuất nhiều nhứt.
Một, TQ suy kinh tế vì thiếu công nhân và quản đốc lành nghề. Don Hanna và Salomon Smith Barney, trưởng phòng nghiên cứu kinh tế Á châu của báo Wall Street Journal cho biết, "Giá nhân công rẻ ở TQ không còn rẻ tại nhiều vùng sản xuất nữa." Các nhà đầu tư thế giới đã để TQ qua một bên khi nghiên cứu dư án đầu tư nước ngoài cho các công ty. Nguyên do, TQ không cung ứng đủ được nhân công và nhứt là thiếu những người quản đốc lành nghề tại chỗ. Cụ thể như Cty Philips Electronics có 17 cơ sở sản xuất đặt tại Á châu, trong đó nhiều ơ sở nằm tại TQ. Thế mà chỉ có 1 phần 3 số công nhân và quản đốc của Phillips là dân Á châu thôi. 2 phần 3 còn lại Phillips phải mướn từ các nước Tây Phương, hay Nhựt đem vào Á châu. Lương bổng, phụ cấp xa xứ Cty phải trả cho số công nhân ngoại nhập này rất cao. Do vậy hàng sản xuất tại TQ, giá trở nên mắc do Cty không kiếm được công nhân và quản đốc giá công xá rẻ ở TQ vì TQ thiếu công nhân và quản đốc lành nghề để cung ứng.
Hai, TQ suy kinh tế vì cứ giữ giá đồng tiền, không điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát cơ học theo thời gian. Vì tác dụng phô trương muốn nhân dân tệ của TQ trở thành chỉ tệ mạnh như đồng đô la Mỹ, TQ bất động, cứ giữ mãi giá trị danh nghĩa đồng tiền TQ. Cho nên một sự tăng lương dù nhỏ ở TQ bằng nhân dân tệ, sẽ trở thành một sự tăng lương lớn về ngoại tệ đối với tiền ngoại quốc được định giá sát với tỷ lệ lạm phát trên thế giới. Thêm vào đó, trong 3 năm trở lại đây thi trường công xá đia phương ở TQ cũng bắt đầu tăng, từ 8 lên đến 9%, theo Van Splunter. Mức tăng đóù là một gánh nặng cho các công ty nước ngoài đầu tư và sản xuất tại TQ, so với thị trường tiền tệ ngoại quốc. Sai biệt hối đoái giữa TQ và nước ngoài này làm cho món hàng các công ty ngoại quốc sản xuất tại TQ, giá thành cao, khó cạnh tranh lại với các nước khác. Nó tạo gánh nặng cho công ty vốn đầu tư từ nước ngoài . Và lợi nhuận của những người nhà đầu tư nước ngoài làm ăn tại TQ cũng ít lại. Mọi công ty đều hoạt động vì lợi nhuận.
Ba, TQ kinh tế suy vì Vùng Mậu Dịch Tư do cuả các nước thuộc ASEAN bắt đầu đi vào sự sốùng, đầu tháng 1 năm 2003 này. Mười nước trong vùng Đông Nam Á họp lại trong tổ chức gọi là ASEAN. Do đia lý chánh trị mười nước như một, tất cả đều sợ sức manïh bành trướng của Bắc Kinh, kinh tế cũng như chánh trị. Nước nhỏ ở gần Người Khổng lồ ai mà chẳng sợ bị lấn ép. VN có bề dày lịch sử nhiều ngàn năm chống Bắc Thuộc kia, còn bị mất đất mất biển vì chánh sách bành trướng của Bắc Kinh, gậm nhấm bằng nhiều cách, từ xâm lược đến áp lực, mua chuộc. Đó là chưa nói đến hàng chục triệu Hoa Kiều đang sinh cơ lập nghiệp tại các nước trong vùng, nếu tài sản cộng lại còn lớn hơn ngân sách quốc gia của Nam dương đông dân hàng thứ nhứt và VN đông dân hàng thứ hai trong Hiệp Hội ASEAN. Các chuyên viên kinh tế đánh giá nếu tập họp tài sản Hoa kiều lại trên khắp thế giới, đó là một siêu cường đứng hàng thứ ba trên thế giới về kinh tế tài chánh. Với thế lực đó, tư nhiên các nước ven Thái Bình Dương nước nào mà chẳng sợ con ngựa thành Troie ấy. Còn TQ thì luôn luôn tự hào với dội quân thứ 5 của mình. Thời Liên xô và TC căng thẳng, có lần Bộ Trưởng Quốc Phòng TC dám nói. Với quân đội cơ giới và nguyên tử, Liên xô có thể xâm chiếm TQ. Nhưng chỉ một thời gian sau, khi đội quân thứ 5 kéo về nối kết được với đại quân TQ trong nước để trả đũa, Liên xô sẽ bị xoá tên trên bản đồ thế giới. Bây giờ Liên xô không còn nhưng đội quân thứ 5 TQ kỳ vọng đó đang là siêu cường thứ ba về kinh tế tài chánh trên thế giới, dàn trải từ San Francisco tới Nam Dương Quần Đảo.
Thế cho nên để chống sự bành trướng kinh tế và chánh trị của Bắc Kinh, ASEAN lập ra Vùng Mậu Dịch Tự Do cho ASEAN. Năm 2003 các nước thuộc ASEAN giảm thuế xuất nhập trong vùng gần đến con số không, theo hiệp ước thành lập Vùng Mậu dịch Tư do Đông Nam Á. Riêng VN đến năm 2006 mới bắt đầu tham gia 100% các điều khoản của hiệp ước. Trung Quốc thấy nguy cơ bị cạnh tranh, đang vận động lập một vùng tự do mậu dịch khác, trong đó TQ là chủ đạo. Nhiều lần họp ở Nam Vang nhưng chưa thành. Còn các nước ngoài có cơ sở ở TQ muốn dời nơi sản xuất về Đông Nam Á, có một khối lượng người tiêu thụ đa dạng lên đến nửa tỷ người và thuế quan gần như không có. Giá cả hàng hoá của ASEAN sẽ cạnh tranh với TQ và sức thu hút đầu tư ngoại quốc của ASEAN sẽ mạnh hơn. Các nhà đầu tư ngoại quốc nghiên cứu kỷ trường họp điển hình của Công ty Dell Computer. Công ty này với 1800 công nhân thành công bám trụ Penang giữa lúc các công ty đua nhau chạy vào TQ vì nhân công rẻ. Cty Dell ở lại Singapore nhưng số lời kiếm được nhiều hơn các Cty vào TQ. Vì nhìn cho kỷ trên khiá cạnh thực giá của tiền tệ, Singapore giá nhân công so với TQ cũng không cao hơn bao nhiêu. Phi luật tân cũng vậy vì các nới này đánh giá đồng tiền của mình sát với thế giới trong khi TQ cứ khăng khăng giữ giá đồng khiến hàng hoá sản xuất ở TQ khó cạnh tranh trên thi trường thế giới. Công xá TQ xem rẻ ở TQ mà thành mắc đối với nước ngoài.
Thiếu nhân cộng và quản đốc lành nghề, không linh hoạt trong việc đình giá tiền tệ, bị cạnh tranh bởi các nước Đông Nam Á, là ba yếu tố thuần chuyên môn về kinh tế tài chánh khiến kinh tế TQ chủ yếu dựa vào đầu tư nước ngoài thu hút bởi giá nhân công rẻ, bị suy. Nếu thêm đó số tỷ người thất nghiệp kinh niên hay mùa màng cứ gia tăng và nạn tham nhũng do chế độ độc tài đảng trị toàn diện, bức tranh kinh tế TQ còn xám xịt hơn.
Một, TQ suy kinh tế vì thiếu công nhân và quản đốc lành nghề. Don Hanna và Salomon Smith Barney, trưởng phòng nghiên cứu kinh tế Á châu của báo Wall Street Journal cho biết, "Giá nhân công rẻ ở TQ không còn rẻ tại nhiều vùng sản xuất nữa." Các nhà đầu tư thế giới đã để TQ qua một bên khi nghiên cứu dư án đầu tư nước ngoài cho các công ty. Nguyên do, TQ không cung ứng đủ được nhân công và nhứt là thiếu những người quản đốc lành nghề tại chỗ. Cụ thể như Cty Philips Electronics có 17 cơ sở sản xuất đặt tại Á châu, trong đó nhiều ơ sở nằm tại TQ. Thế mà chỉ có 1 phần 3 số công nhân và quản đốc của Phillips là dân Á châu thôi. 2 phần 3 còn lại Phillips phải mướn từ các nước Tây Phương, hay Nhựt đem vào Á châu. Lương bổng, phụ cấp xa xứ Cty phải trả cho số công nhân ngoại nhập này rất cao. Do vậy hàng sản xuất tại TQ, giá trở nên mắc do Cty không kiếm được công nhân và quản đốc giá công xá rẻ ở TQ vì TQ thiếu công nhân và quản đốc lành nghề để cung ứng.
Hai, TQ suy kinh tế vì cứ giữ giá đồng tiền, không điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát cơ học theo thời gian. Vì tác dụng phô trương muốn nhân dân tệ của TQ trở thành chỉ tệ mạnh như đồng đô la Mỹ, TQ bất động, cứ giữ mãi giá trị danh nghĩa đồng tiền TQ. Cho nên một sự tăng lương dù nhỏ ở TQ bằng nhân dân tệ, sẽ trở thành một sự tăng lương lớn về ngoại tệ đối với tiền ngoại quốc được định giá sát với tỷ lệ lạm phát trên thế giới. Thêm vào đó, trong 3 năm trở lại đây thi trường công xá đia phương ở TQ cũng bắt đầu tăng, từ 8 lên đến 9%, theo Van Splunter. Mức tăng đóù là một gánh nặng cho các công ty nước ngoài đầu tư và sản xuất tại TQ, so với thị trường tiền tệ ngoại quốc. Sai biệt hối đoái giữa TQ và nước ngoài này làm cho món hàng các công ty ngoại quốc sản xuất tại TQ, giá thành cao, khó cạnh tranh lại với các nước khác. Nó tạo gánh nặng cho công ty vốn đầu tư từ nước ngoài . Và lợi nhuận của những người nhà đầu tư nước ngoài làm ăn tại TQ cũng ít lại. Mọi công ty đều hoạt động vì lợi nhuận.
Ba, TQ kinh tế suy vì Vùng Mậu Dịch Tư do cuả các nước thuộc ASEAN bắt đầu đi vào sự sốùng, đầu tháng 1 năm 2003 này. Mười nước trong vùng Đông Nam Á họp lại trong tổ chức gọi là ASEAN. Do đia lý chánh trị mười nước như một, tất cả đều sợ sức manïh bành trướng của Bắc Kinh, kinh tế cũng như chánh trị. Nước nhỏ ở gần Người Khổng lồ ai mà chẳng sợ bị lấn ép. VN có bề dày lịch sử nhiều ngàn năm chống Bắc Thuộc kia, còn bị mất đất mất biển vì chánh sách bành trướng của Bắc Kinh, gậm nhấm bằng nhiều cách, từ xâm lược đến áp lực, mua chuộc. Đó là chưa nói đến hàng chục triệu Hoa Kiều đang sinh cơ lập nghiệp tại các nước trong vùng, nếu tài sản cộng lại còn lớn hơn ngân sách quốc gia của Nam dương đông dân hàng thứ nhứt và VN đông dân hàng thứ hai trong Hiệp Hội ASEAN. Các chuyên viên kinh tế đánh giá nếu tập họp tài sản Hoa kiều lại trên khắp thế giới, đó là một siêu cường đứng hàng thứ ba trên thế giới về kinh tế tài chánh. Với thế lực đó, tư nhiên các nước ven Thái Bình Dương nước nào mà chẳng sợ con ngựa thành Troie ấy. Còn TQ thì luôn luôn tự hào với dội quân thứ 5 của mình. Thời Liên xô và TC căng thẳng, có lần Bộ Trưởng Quốc Phòng TC dám nói. Với quân đội cơ giới và nguyên tử, Liên xô có thể xâm chiếm TQ. Nhưng chỉ một thời gian sau, khi đội quân thứ 5 kéo về nối kết được với đại quân TQ trong nước để trả đũa, Liên xô sẽ bị xoá tên trên bản đồ thế giới. Bây giờ Liên xô không còn nhưng đội quân thứ 5 TQ kỳ vọng đó đang là siêu cường thứ ba về kinh tế tài chánh trên thế giới, dàn trải từ San Francisco tới Nam Dương Quần Đảo.
Thế cho nên để chống sự bành trướng kinh tế và chánh trị của Bắc Kinh, ASEAN lập ra Vùng Mậu Dịch Tự Do cho ASEAN. Năm 2003 các nước thuộc ASEAN giảm thuế xuất nhập trong vùng gần đến con số không, theo hiệp ước thành lập Vùng Mậu dịch Tư do Đông Nam Á. Riêng VN đến năm 2006 mới bắt đầu tham gia 100% các điều khoản của hiệp ước. Trung Quốc thấy nguy cơ bị cạnh tranh, đang vận động lập một vùng tự do mậu dịch khác, trong đó TQ là chủ đạo. Nhiều lần họp ở Nam Vang nhưng chưa thành. Còn các nước ngoài có cơ sở ở TQ muốn dời nơi sản xuất về Đông Nam Á, có một khối lượng người tiêu thụ đa dạng lên đến nửa tỷ người và thuế quan gần như không có. Giá cả hàng hoá của ASEAN sẽ cạnh tranh với TQ và sức thu hút đầu tư ngoại quốc của ASEAN sẽ mạnh hơn. Các nhà đầu tư ngoại quốc nghiên cứu kỷ trường họp điển hình của Công ty Dell Computer. Công ty này với 1800 công nhân thành công bám trụ Penang giữa lúc các công ty đua nhau chạy vào TQ vì nhân công rẻ. Cty Dell ở lại Singapore nhưng số lời kiếm được nhiều hơn các Cty vào TQ. Vì nhìn cho kỷ trên khiá cạnh thực giá của tiền tệ, Singapore giá nhân công so với TQ cũng không cao hơn bao nhiêu. Phi luật tân cũng vậy vì các nới này đánh giá đồng tiền của mình sát với thế giới trong khi TQ cứ khăng khăng giữ giá đồng khiến hàng hoá sản xuất ở TQ khó cạnh tranh trên thi trường thế giới. Công xá TQ xem rẻ ở TQ mà thành mắc đối với nước ngoài.
Thiếu nhân cộng và quản đốc lành nghề, không linh hoạt trong việc đình giá tiền tệ, bị cạnh tranh bởi các nước Đông Nam Á, là ba yếu tố thuần chuyên môn về kinh tế tài chánh khiến kinh tế TQ chủ yếu dựa vào đầu tư nước ngoài thu hút bởi giá nhân công rẻ, bị suy. Nếu thêm đó số tỷ người thất nghiệp kinh niên hay mùa màng cứ gia tăng và nạn tham nhũng do chế độ độc tài đảng trị toàn diện, bức tranh kinh tế TQ còn xám xịt hơn.
Gửi ý kiến của bạn