Hôm nay,  

Từ Bắc Kỳ Di Cư Tới Tỵ Nạn Chính Trị

05/05/202009:13:00(Xem: 3496)

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm di cư từ Bắc vô Nam, lang tôi xin ra ngoài lãnh lực y học, ghi lại vài hàng về biến cố đau buồn này. Để khỏi “Lạc bất tư Thục”, ham vui mà quên cả quê hương, bản quốc… Một quê hương còn nhiều tai ương.

Đang giờ học Việt văn của giáo sư Nguyễn Tường Phượng thì tôi được nhân viên phòng Giám học kêu xuống gặp người nhà. Tôi học lớp Đệ Tam ban A Trung Học Chu Văn An ở Hà Nội.

Tới văn phòng, tôi thấy bố tôi đang ngồi chuyện với thày Vũ Ngô Xán và Thầy Giám học Vũ đức Thận. Bố tôi quen với hai cụ qua người anh họ tôi là Vũ Ngọc Các Chủ Nhiệm báo Dân Chủ ở đường Gia Long, Hà Nội. Bố cho tôi hay là đã xin phép hai cụ để cho nghỉ học sớm và theo ông về quê có việc.

Hai bố con về nhà tôi trọ để thu xếp đồ đạc rồi ra bến xe đò để về tinh Hải Dương. Trên đường đi, bố tôi cho hay là phải di cư vào Nam ngay vì Việt Minh sắp tiếp thu Hà Nội  và các tỉnh ở bên đây sông Bến Hải.

Vào thời gian đó, tình hình chiến sự ở miền Bắc sôi động ác liệt mạnh mẽ. Đi đâu cũng nghe nói thấy sự rút lui của quân viễn chinh và quân đội quốc gia. Khi đó phương tiện là đài phát thanh và mấy tờ báo chứ đâu có internet, truyền hình …như ngày nay, nên tin tức rất hiếm hoi, đôi khi chỉ là truyền khẩu.

Rất nhiều dân chúng ở Hà Nội và các tỉnh lỵ miền Bắc cũng hốt hoảng và sửa soạn thu vén di cư vào Nam. Ủy Ban Bảo Vệ Bắc Việt đã được thành lập song hành với Ủy Ban Di Cư.

Đường phố ngổn ngang những vật dụng mang ra bán. Những tủ chè, sập gụ, những lư đồng, bình sứ rồi quần áo gia dụng. Thôi thì đủ thứ. Ai ai cũng cố bán tống bán tháo để có chút vốn di cư. Đó là cuộc di cư vĩ đại của trên dưới một triệu đồng bào miền Bắc bỏ mồ mả cha ông chỉ vì không chấp nhận chế độ cộng sản ngoại lai. Họ đã nghe nói cũng như chứng kiến sự khắc nghiệt của chính quyền đối với dân chúng do chế độ kiểm soát. Những đấu tố, những thủ tiêu không nương tay, những kiểm soát theo dõi rất khắt khe.

Bố tôi làm việc tại tòa Tỉnh Trưởng Hải Dương. Ông cũng chỉ là nhân viên phù động do quen biết chứ không phải là công chức chính ngạch. Xuất thân con nhà có chút ruộng đất, nên trước chiến tranh ông chỉ giao du hưởng thụ. Ông nội mua cho bố tôi chức Hội trong làng, nên cũng có một vài vai vế  với chốn đình trung  và ngoài xã hội. Theo anh tôi thì ông cụ cũng “phá gia chi tử” lắm. Thời đó làm gì có nhiều ngân hàng, chi phiếu thẻ tín dụng nên đỏ đen hết tiền mặt là văn tự ruộng đất nhà cửa được đưa ra để cầm bán.

Gia đinh chúng tôi phỉa bỏ quê lên tỉnh làm ăn vì không thich hợp với “kháng Chiến Đia Phương” Ông bác ruột bị thủ tiêu chỉ vì giữ chức Cửu trong xã. Anh tôi khi đó mới 12 tuổi không sớm băng đồng trong đêm chạy lên huyện Nam Sách thì cũng bị bắt. Chồng của cô tôi bị bắt nhầm vì tưởng là bố tôi. Ông cụ đã về vùng tề từ mấy ngày trước. Lý do là họ nhà tôi làm chủ một số điền thổ trong tổng và được liệt kê vào hạng cường hào ác bá”.

Hai bố con về tỉnh để sửa soạn ra đi. Chúng tôi phải xuống Hải Phòng để đi tầu thủy, vì khi đó chương trình di cư đang ở cao điểm cho nên di tản bằng đường hàng không trở nên hiếm hoi.

Những ngày nấn ná sửa soạn bán nhà cửa đồ đạc chờ ngày lãnh giấy lên tầu là những ngày rất giao động. Họ hàng dưới quê lên  thăm hỏi, chia tay. Nhiều người nì non quyến dụ. Nào là đất nước thanh bình đến nơi rồi, tại sao không ở lại mà hưởng “tự do, hạnh phúc”?.Rằng chính phủ rất khoan hồng, mọi người đều được tiếp tục làm việc như trước. Một bà bạn của gia đinh có cô con gái rượu thì “cháu ở lại đi, mai mốt đất nước thống nhất thì tha hồ vào thăm Sài Gòn”. Ông chú ruột làm phát ngân viên cho Bảo Chính Đoàn tỉnh được gia đình vợ hai móc nối ở lại, “cứ mang hết tiền quỹ về xây dựng sự nghiệp, giúp làng xóm, tha hồ mà sướng”. Nhưng bố tôi đã nhất quyết ra đi vì đã phần nào hiểu rõ bản chất của chế độ. Bà vợ kế của bố tôi ở lại với một đứa con gần hai tuổi và bụng chửa hơn bốn tháng, vì bố mẹ ở dưới quê muốn  gắn bó với quê cha đất tổ.

Ngày ngồi trên xe lửa từ Hải Dương xuống Hải Phòng mới thực vất vả và chứng kiến nhiều bi hài kịch. Tầu đậu ờ nhiều ga dọc theo đường số năm để lấy thêm khách, mà hầu hết là xuống Hải Phòng để vô Nam bằng tầu thủy há mồm. Cán bộ đia phương được tung ra để gây trở ngại ngăn cản lên tầu. Cũng có những chửi mắng “đi liếm chân cho đế quốc làm Việt gian cho giặc Pháp. Chẳng khác gì “tàn dư Mỹ Ngụy” mấy chục năm sau này. Rồi vứt đồ, đánh đập cho bõ ghét.

Làm thân rau muống Bắc Kỳ di cư ở trong Nam gần ba mươi năm, người dân miền Bắc đã đóng góp nhiều cho mảnh đất quê hương thứ hai. Và cũng đã hy sinh nhiều xương máu chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản. Nhưng kết quả là chỉ tránh được hiểm họa Đỏ cho một phần nhỏ của thế giới với cái giá là một lần nữa lại tỵ nạn vào phần tư cuối của thế kỷ hai mươi.

Từ Bắc Kỳ Di Cư tới tỵ nạn chính trị thấm thoát mà đã nửa thế kỷ, năm mươi năm, mười lăm ngàn hai trăm năm ngày dài đằng đẵng.

Về quê hương thì vẫn thấy ngậm ngùi chua sót. Những người vì hòa bình thống nhất lại miền quê thì đời sống  không khác gì mấy, so với 50 năm về trước. Có chăng là ngọn đèn điện, chiếc ti vi, chiếc xe gắn máy. Vẫn quần quật giật gấu vá vai lam lũ.Vẫn chân đất với bùn lầy nước lỗ chân trâu. Ngày kiếm được 50 xu Mỹ là mừng rồi.

Ông chú đã sớm ra người thiên cổ , vì nhửng nhiếc móc  theo địch , hại nước, hại dân, tịch thu tài sản. Bà thím già nua , kèm nhèm quệt nước mắt với bầy cháu thò lò mũi xanh thì :”đểGiá mà ngày đó chú thím và các em theo chân bố cháu”. Cô em gái lao động ở Đông Âu để dành được chút tiền mở hàng xén cho qua ngày. Mấy  đứa cháu chưa bao giờ biết mặt thì “chúng cháu theo giải phóng vào kiếm các chú thì các chú đã ra đi, không đợi chúng cháu đi với”.

Báo chí trong nước phản ảnh đầy rẫy những than phiền của dân chúng cũng như tuyên bố của viên chức chính quyền các cấp về tham những cửa quyền, bất công xã hội, thất nghiệp, tệ đoan xã hội. Đã có những chương trình, đề nghị nửa vời , cầm chừng, trồi sụt thấy tháng như của bà mẹ nạ dòng sắp vào tuổi mãn kinh.Khoảng cách giầu nghèo sao mà quá chênh lệch. Một bữa “chiêu đãi”cá sống Việt Trì bẩy món với rượu ngoại của người giầu quyền thế tốn công quỹ quốc gia dành cho y tế cả dăm bẩy trăm Mỹ kim như không.Trong khi đó thì ngân sách quốc gia dành cho y tế chỉ có y tế chỉ có năm mỹ kim  mỗi năm cho một đầu người. Tư bản Mỹ thực phí phạm , bỏ ra những 2000 tiền đô xanh

Với cộng đồng tỵ nạn , thì theo nhiều người , cũng có nhiều điều tưởng như cần làm, cần thay đổi, thích nghi.Chăng hạn , có ý kiến cho rằng , sống trên đất nước mà quyền tự do , dân chủ được tôn trọng tối đa, chẳng lẽ lại cứ mãi mãi  “Con đường của ta là duy nhất đúng. Mọi phương thức khác là chao đảo, nịnh bợ”

Hầu hết những người theo bố mẹ làm Bắc Kỳ di cư rồi đứng mũi chịu sào đưa gia dình đi tỵ nạn chính trị ở ngoại quốc đang ở vào giai đoạn cuối của cuộc đời. Hôm nay ngồi lại với nhau,ôn lại ngày lẽo đẽo lên tầu há mồm vô Nam dọc theo bờ biển chữ S, rồi bồng bế con cái di tản bằng phương tiện tiến bộ hơn, mà thấy nao nao, ướt mắt…

Tương lai như chìm dần.

Thôi đành trông cậy ở thế hệ đến sau, trong và ngoài nước, nhìn rõ thực tại , nhiệt huyết hơn, thẳng thắn hơn, công bàng hơn.

Để xây dựng cộng đồng uy tín, quê hương có tự do dân chủ cụ thể, thực tế chứ không chỉ trên giấy tờ, văn bản. Dù là tương đối. Vì có còn hơn không.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Texas Vu Lan 2004

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công...
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, cần phải phân loại, xác định rõ ràng các loại “địch” để tìm cách đối phó hoặc vận động gây cảm tình làm đồng minh, tùy loại địch. Mọi người thường nói, “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” là vậy.
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.