VUA MINH MẠNG: NGUYỄN PHÚC ĐẢM
(1791-1841)
.
Năm 1815, Nguyễn Phúc Đảm (Đởm) được phong Thái tử. Năm 1820, lên ngôi, niên hiệu Minh Mạng (Mệnh). Vua là người năng động và quyết đoán, thường thức khuya dậy sớm và bảo: “... lúc trẻ tuổi còn khoẻ mạnh mà không biết sửa sang mọi việc, đến lúc già yếu thì còn mong làm gì được nữa. Bởi thế trẫm không dám lười biếng bất kỳ lúc nào”.
.
Thời Minh Mạng có nhiều cuộc nổi dậy chống triều đình:
- Bắc Kỳ: Lê Duy Lương, Nông Văn Vân, Phan Bá Vành...
- Nam Kỳ: Năm 1833, Lê Văn Khôi chiếm Gia Định, cầu cứu quân Xiêm chống lại triều đình. Vua cử Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đánh tan quân Xiêm, tiến qua Chân Lạp. Năm 1835, đổi Chân Lạp là Trấn Tây Thành để bảo hộ.
.
Vua Minh Mạng đã cho cải cách đất nước hàng loạt:
- Quốc hiệu: Năm 1833, vua Minh Mạng cử sứ thần sang nhà Thanh, xin ý kiến đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Nhưng nhà Thanh không thuận. Ngày 15-2-1839, nhận thấy nhà Thanh suy yếu, vua Minh Mạng đã chính thức công bố quốc hiệu là Đại Nam.
.
- Hành Chánh: Vua cho bỏ các dinh, trấn; thành lập các tỉnh. Đất nước chia làm 31 tỉnh, đặt các quan Tổng đốc, Tuần phủ, Bố Chính sứ, Án sát và Lãnh binh để trông coi; bãi bỏ tổng trấn Bắc thành và Gia Định thành, đổi trấn thành tỉnh.
.
- Quân sự: Vua Minh Mạng cho chia quân đội thành Bộ binh, thuỷ binh, kỵ binh, pháo thủ binh và tượng binh. Bộ binh có kinh binh và cơ binh. Kinh binh chia làm doanh, vệ đội, đóng ở kinh thành hay ở tỉnh. Lập đồn ải ở những nơi hiểm yếu trong nước. Ngoài biển thì lập pháo đài, vua rất chú trọng thuỷ quân. Ngày nay, các vùng hải đảo, còn “Châu bản” như: chiếu chỉ, sớ... của triều Minh Mạng ghi việc triều đình nhiều lần cử quân đội ra Hoàng Sa đo đạc và vẽ bản đồ.
.
- Văn hóa, Giáo dục: Năm 1821, vua Minh Mạng cho thành lập Quốc tử giám ở kinh thành Huế. Vua nói: “Đạo trị nước phải gây dựng nhân tài”. Vua là người tinh thông Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, rất quan tâm đến nền khoa cử, học vấn. Vua đã từng làm thơ, soạn sách văn học; đã chỉ thị biên soạn các sách sử, địa.
Ai soạn sách mới, dâng sách cũ đều được vua ban thưởng và khuyến khích. Các bộ sách: Gia Định thành thông chí, Lịch Triều Hiến Chương loại chí,… đều ra đời dưới thời Minh Mạng. Con của vua: Tùng thiện vương Miên Thẩm, Tuy lý vương Miên Trinh, Tương an Quận vương Miên Bửu... đều là những nhà văn, nhà thơ xuất sắc, rất nổi tiếng dưới các triều vua Thiệu Trị và Tự Đức.
.
- Xã hội: Vua cho thống nhất việc đo lường và y phục. Năm 1836, các phủ huyện được cấp các cân mẫu, đến năm 1839, được cấp các loại thước mộc, thước may, thước đo ruộng. Về y phục, vua nói: “Ngày nay nước nhà cương thổ đã hiệp nhất thì chính trị, phong tục lẽ nào khác biệt”. Từ đấy, nhiều đạo dụ được ban bố để y phục miền Bắc và miền Nam giống nhau. Vua còn ban dụ lập nhà dưỡng tế ở các tỉnh để giúp đỡ những người nghèo, tàn tật, già cả và người neo đơn.
.
- Nông nghiệp: Vua khuyến khích việc khẩn hoang, cho quan lại mộ dân lập ấp mới từ Bắc chí Nam. Tại Bắc Bộ, vua cử quan khuyến nông, lo hệ thống đê điều, khai hoang ven biển. Tại Nam Bộ cho khai hoang và thuỷ lợi cũng được tiến hành. Năm 1832, vua Minh Mạng cho mở ngành tơ tằm Đại Nam. Triều đình còn bắt quan lại ở các tỉnh phải xuất lúa giống ở kho cho dân nghèo vay để làm mùa sau, như vậy nông dân không bị khó khăn, nông vụ không bị trở ngại.
.
- Đinh điền và thuế khóa: Thuế đinh, thuế điền, các thuế mỏ, thuế sản vật… thì căn bản hầu hết theo luật Gia Long đã định. Đến thời vua Minh Mạng đặt lệ đánh thuế muối. Còn đối với những người Hoa (gọi là Minh Hương) sang sinh sống ở Đại Nam, triều đình có văn thư mỗi người một năm phải nộp 2 lạng bạc. Những người già yếu và khuyết tật phải chịu 1 nửa. Đối với những người nhà Thanh sang Đại Nam buôn bán, người nào có vật lực thì một năm phải đóng 6 quan tiền; ai không có vật lực thì phải nộp một nửa.
.
- Quan chế: Vua Minh Mạng, khi dùng người chú trọng cả tài lẫn đức, nhất là học vấn. Vì người thiếu học thì không rõ pháp luật, lỡ khi xử đoán sai thì sẽ làm khổ dân. Nên quan phủ, quan huyện không được tham nhũng hay phiền nhiễu dân. Vua Minh Mạng còn cho định mức lương bổng cho quan lại, định tiền gạo cho mỗi cấp cùng thời hạn lãnh lương. Vua còn cho cấp tiền dưỡng liêm để tránh sự tham nhũng của quan lại. Vua đặt ra lệ, người nào được thăng quan, được bổ nhiệm đều phải về kinh gặp vua trước khi nhậm chức, để nhà vua kiểm tra đức độ, tài năng và khuyên bảo làm quan phải công, minh, liêm, chính, để đời sống dân được yên ổn.
.
- Ngoại giao: Đối với Tàu, Minh Mạng chủ trương tiếp tục triều cống và giữ quan hệ ngoại giao hữu hảo với nhà Thanh. Với những người Pháp đã từng giúp vua Gia Long trước kia, vua Minh Mạng lại tỏ thái độ lạnh nhạt, ông chỉ thoả thuận mua bán với người Pháp nhưng không chấp nhận thành lập quan hệ ngoại giao chính thức với nước Pháp, quốc thư của Pháp xin cho Chaigneau làm Lãnh sự Pháp ở nước ta không được vua Minh Mạng đồng ý. Với Ai Lao, nhiều vùng đất Ai Lao đã xin Đại Nam bảo hộ, như: Sầm Nứa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savannakhet giáp với các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, đã sáp nhập và trở thành các châu, phủ của Đại Nam. Với Chân Lạp, sau khi phá được quân Xiêm, Trương Minh Giảng và Lê Đại Cương lập đồn Đại Nam gần Nam Vang (Phnôm Pênh) để bảo hộ Chân Lạp, đổi Chân Lạp thành Trấn Tây Thành, rồi chia làm 32 phủ và 2 huyện, và đặt các chức quan cai quản mọi việc quân sự và dân sự. Nên lãnh thổ Đại Nam vào thời Minh Mạng rất rộng lớn. Nhưng đến đời vua Thiệu Trị, thì triều đình Huế cho rút quân về.
.
- Kỹ thuật công nghệ: Thời Minh Mạng, đã chế tạo được máy cưa xẻ gỗ bằng sức nước, máy hút nước tưới ruộng. Năm 1839, Hoàng Văn Lịch và Vũ Huy Trịnh cùng thợ thuyền đã đóng thành công chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên.
.
Triều đình Huế thủ cựu, việc chính sự thường đem vua Nghiêu, Thuấn xưa cổ đã lỗi thời ra bàn bạc, thần phục nhà Thanh, cấm đạo Thiên Chúa, thiếu thân thiện với các nước tân tiến Tây phương, nên nước nhà khó khăn canh tân.
.
Vua Minh Mệnh có nhiều vợ, tới 142 người con (78 nam, 64 nữ). Tương truyền vua Minh Mệnh nói: “Nhất dạ ngũ giao, tam hữu dâng” (một đêm ngủ với 5 Bà, 3 Bà có thai). Vua đặt ra “Đế hệ thi” để sau này con trai và cháu chắt của vua có tên lót trong “Đế hệ thi” do vua đã đặt sẵn mới được nối ngôi: .
“Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh
Bảo, Quý, Định, Long, Tường
Hiền, Năng, Kham, Kế, Thuật
Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương”
.
.
Do vậy, các vua: Thiệu Trị là Miên Tông, vua Tự Đức là Hồng Nhậm, vua Hàm Nghi là Nguyễn Phúc Ưng Lịch...vua Bảo Đại là Vĩnh Thụy. Vua Minh Mạng mất ngày 28 tháng 12 Canh Tý (20-1-1841 DL), thọ 50 tuổi, ở ngôi 21 năm.
.
*- Thiết nghĩ: Vua Minh Mạng năng động, cần mẫn, đã chấn chỉnh nước nhà có kỷ cương, nhưng lại cai trị theo nước Tàu lỗi thời. Vua không có lòng khoan dung về tín ngưỡng, giết hại những người theo đạo Công giáo, thiếu hài hòa với các nước tân tiến Tây phương nên nước ta bị chậm tiến.
Vua cho san bằng mộ Lê Văn Duyệt là đáng trách?!
Có lẽ, vua Minh Mạng muốn trở thành vị minh quân như vua Lê Thánh Tông, nhưng thế thời đã khác. Thời của Lê Thánh Tông chế độ phong kiến Nho giáo tại Á Đông còn vững vàng, dân dã và quần thần của nhà Lê cũng như các nước Á Đông còn quan niệm: “Trung quân, ái quốc”. Nhưng đến thời vua Minh Mạng trị vì (1820-1841), là sau cách mạng Pháp (1789) đã nửa thế kỷ, đã ảnh hưởng từ Âu sang Á, thâm nhập vào chế độ phong kiến Nho giáo đã đến tận gốc rễ; đã xác định người “ái quốc” thì không hẳn phải trung quân?! Nên vua Minh Mạng không thể sánh kịp với Lê Thánh Tông. Và không thể gọi vua Minh Mạng là vị minh quân, nhưng phải khẳng định rằng Minh Mạng là vua thông minh, quyết đoán, tận tuỵ lo nước thương dân, có lẽ từ cổ chí kim ít ai như ngài.
.
Cảm phục: Vua Minh Mạng
.
Vua Minh Mệnh, củng cố xa gần
Tàn tật, nghèo nàn được đặc ân
Lo lắng triều đình, trông chính sự
Dặn dò quan lại, giúp muôn dân
Quân thuyền sắm sửa, dùng gìn giữ
Cương thổ săm soi, được định phân
Thần phục nước Tàu, oan uổng quá!
Bế quan tỏa cảng, khó canh tân?!
.
Nguyễn Lộc Yên
.
.
Vua Minh Mạng = 1 ông vua gieo giống.
Nước VN bắt đầu vào thời điềm suy đồi cho đến ngày nay vào triều đại nhà Nguyễn.
Vua Gia Long vi sao khong lap Hoang Tu Canh, len noi ngoi ma lap Nguyen Phuc Dam len noi ngoi. Vi Vua Gia Long nhan thuc rat ro, Hoang Tu Canh da it nhieu bi bon ngoai toc - PHAP lung lac tinh than, de dang ban nuoc. Ke tho lay Ngoai Toc, thi lam sao co TINH THAN KINH HIEU voi TO Tien, co TINH THAN DAN TOC? cai ho tho lay do la ke ngoai toc, cai van hoa ma ho ton tho do la van hoa ngoai lai, va cai mau quoc cua ho la Phu Lang sa?
Hang trieu dong bao va nghia quan khang chien chong Thuc dan Phap xam luoc da bi bon tay sai, Viet gian giet hai. Bai van te Nghia Si Can Guoc van con do! Va loi day cua Tien Nhan: " Cho bao nhieu Dao thuyen khong kham, Dam may thang gian but chang ta"? Ai la nhung thang gian ma To Tien chung ta da xac dinh?