Hôm nay,  

Từ Nhãn Thị Chúng Sanh

17/03/200900:00:00(Xem: 5159)

TỪ NHÃN THỊ CHÚNG SANH
Hình 1:

Tôn tượng Quan Âm tại Chùa Việt Nam, Houston, TX.


 

 

 

 

 

Hình 2:

Cầu Hương Thủy, Chùa Việt Nam, Houston (Lễ Hội Quan Âm).  

 
Hạnh Chi
"Cụ nhất thế công đức
Từ nhãn thị chúng sanh
Phước tụ hải vô lượng
Thị cố ưng đảnh lễ."
Đây là lời tán thán Đức Bồ Tát Quán Thế Âm trong kinh Phổ Môn. Bài tán dạy rằng, với công đức đầy đủ, Ngài nhìn khắp chúng sanh bằng đôi mắt từ ái, sẵn sàng đáp lại tiếng kêu thương. Trước biển phước vô lượng như thế, chúng ta đều cung kính đảnh lễ.
Theo truyền thuyết, Bồ Tát Quán Thế Âm bắt đầu tu bằng cách lắng nghe. Ngài thường đến ven biển, ngồi trên ghềnh đá, lặng thinh nghe tiếng sóng vỗ ầm ì. Từng đợt sóng lớn nhỏ xô đẩy nhau, dạt vào bờ tạo ra những chuỗi âm thanh vỡ vụn, khi như reo vui, lúc lại như nức nở. Tai (căn) nghe tiếng sóng (trần) tâm xôn xao (thức) khiến đôi lúc Ngài không giữ được tâm  thanh tịnh. Ngài bèn rời biển, đi vào rừng sâu, thiền định nơi thật khuất vắng, nhưng lạ thay, âm thanh của sóng biển rì rầm vẫn văng vẳng bên tai.     
Ngài biết rằng âm thanh này chẳng phải thực âm thanh mà chỉ là những chủng tử đã rơi vào tàng thức; rồi, vì Ngài đang chú tâm vào cách lắng nghe nên những chủng tử này đã thức dậy. Chủng tử này chính là cái Duyên khi Căn gặp Trần và nảy sanh ra Thức.   
Căn gặp Trần tựa như hóa chất kết hợp nhau. Tùy hóa chất đó là gì thì sẽ sanh ra Thức phù hợp theo ( mắt thấy đóa hoa tươi, khởi niềm yêu thích; tai nghe tiếng sấm chớp thì sợ hãi v…v…) Đó là Căn duyên theo Trần mà tạo ra Thức phân biệt (đẹp, xấu, vui, buồn, yêu, ghét ) Vậy, muốn buông xả tâm cảnh là phải quán sát thực thể của chúng, thay vì nhắm mắt làm ngơ.
Ngài bèn quay lại bờ biển, ngồi trên ghềnh đá cũ, lại nghe sóng biển xô đẩy nhau nhưng nay nghe bằng sự quán sát kỹ lưỡng. À, sóng có cao, có thấp, có lớn, có nhỏ, đuổi nhau từng lớp, ập vào bờ, tạo ra âm thanh lúc dịu dàng, lúc dữ dội. Sóng chẳng phải tự nhiên thành mà do duyên theo gió. Gió lớn tạo sóng to, gió nhẹ tạo sóng nhỏ. Nếu không có gió thì chẳng có sóng. Nghĩa là, sóng đến và đi là theo duyên của gió chứ tự thể nước vốn không động, không tịnh, cũng chẳng đến, đi!
Quán sát được điều này Ngài không để tâm mình duyên theo âm thanh của sóng nữa. Sóng đến, tâm không động; sóng đi, tâm không theo vì khi ấy Ngài không còn nghe bằng nhĩ căn nữa mà nghe bằng TÁNH-NGHE, Căn gặp Trần không còn khởi Thức nữa nên Tánh-Nghe đã nghe được cả sự tĩnh lặng vì sự sinh diệt, đến đi của âm thanh hoàn toàn không lay động tới Tánh-Nghe.  
Duy Thức Học đặt dấu mốc này là Bình-Đẳng-Tánh-Trí, là không còn Thức nữa, chỉ còn Trí.
Một lần, Đức Phật muốn dạy đại chúng về Tánh-Nghe này nên bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi Đức Phật quay sang hỏi ngài A Nan:
- Ông có nghe không"
Ngài A Nan và đại chúng thưa:
- Da, chúng con có nghe.
Chờ âm vang của tiếng chuông dứt hẳn, Đức Phật mới hỏi:
- Ông có nghe không"
Ngài A Nan và đại chúng thưa:
- Dạ, chúng con không nghe.
Đức Phật lại bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông nữa rồi hỏi ngài A Nan:
- Ông có nghe không"
Ngài A Nan và đại chúng thưa:
- Dạ, chúng con có nghe.
Bấy giờ Đức Phật mới giảng giải:
- Này A Nan, ông đang lầm lẫn giữa NGHE và TIẾNG. Khi tiếng không còn âm vang, ông nói là "không nghe". Nhưng nếu thực ông không còn khả năng nghe thì sao khi tiếng chuông thứ hai ngân lên, ông lại nhận biết" TIẾNG trong CÁI NGHE tự nó sanh diệt là do âm thanh khi có, khi không; còn cái NHẬN BIẾT ÂM THANH có hay không, thì bất sanh bất diệt. Đó chính là TÁNH NGHE. Chớ lầm cái Tiếng thành cái Nghe mà dễ đưa tới sự lầm khác là cái Thường ngỡ là cái Đoạn!


Do công phu quán sát và tu tập cách an trú trong Tánh Nghe mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã lập ra pháp môn "NHĨ CĂN VIÊN THÔNG", từng được ngài Văn Thù Sư Lợi vâng lời Đức Phật, chọn là pháp môn thù thắng nhất trong các pháp môn của hai mươi lăm vị Bồ Tát lớn.
Với đại nguyện cứu khổ cứu nạn chúng sanh, Bồ Tát Quán Thế Âm đã vận dụng Tánh Nghe vi diệu của bậc Đại Trí, dõi mắt thương nhìn khắp chúng sanh, lắng nghe tiếng kêu thương của ba cõi sáu loài dù những tiếng kêu thương đó hữu thanh hay vô thanh, Ngài thường tùy biển khổ mênh mông mà hóa hình cứu độ.
Du khách tới Nhật Bản, nếu ghé quần đảo Osaka, có thể ngạc nhiên khi tình cờ nhìn thấy tượng Bồ Tát Quán Thế Âm được an vị trang trọng trong một ngôi nhà thờ. Đây là chứng tích mầu nhiệm, kỳ diệu của tấm lòng Bồ Tát đã lắng nghe và đến với mọi nơi trong cơn nguy khốn.
Tại Nhật Bản, thời Mạc Phủ cai trị, chính quyền rất kỳ thị Thiên Chúa giáo. Các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha thường xuyên sống trong hồi hộp, lo sợ vì sự truy lùng. Khi chính quyền biết tin quần đảo Osaka còn một nhà thờ mà dân chúng đang được truyền đạo thì họ đã ra lệnh cho quân đội tới nơi, không chỉ tàn sát các nhà truyền giáo mà còn tàn sát cả những ai theo đạo. Được tin đó, cha xứ vô cùng hốt hoảng, không biết làm gì hơn là cùng với giáo dân, ngày đêm cầu nguyện Mẹ Maria. Một lần, quá mệt, cha xứ ngủ thiếp đi. Trong cơn nửa tỉnh nửa mê, ông thấy một người nữ hiện ra rực rỡ trên bầu trời ảm đạm, trên tay cầm bình tịnh thủy, nhẹ nhàng rưới khắp quần đảo. Vì đã từng nghiên cứu về Đạo Phật nên ông biết vị hiện ra trong giấc mơ là Đức Bồ Tát Quán Thế Âm chứ không phải Mẹ Maria, và bình nước trên tay Ngài là nước Cam-lộ xoa dịu thương đau.
Choàng dậy, ông hướng lên trời cao tạ ơn Bồ Tát. Ông đã hiểu ý lời chỉ dạy cứu nguy của Ngài nên vội vã cùng các giáo dân phác họa và cấp tốc dựng tôn tượng Đức Quán Thế Âm đơn sơ trước sân giáo đường, rồi huy động mọi người đến  quanh tôn tượng, cầu nguyện và quỳ lạy như hình thức Đạo Phật.
Khi quân lính của chính quyền đổ bộ vào quần đảo, họ chỉ thấy dân chúng đang kính cẩn lạy Mẹ Quán Thế Âm, chứ hình tượng này nào phải là Mẹ Maria của đạo Thiên Chúa!   
Đây chắc do tin tức sai lầm nên họ lẳng lặng bỏ đi, sau khi đã quan sát và chiêm ngưỡng tôn tượng Bồ Tát.
Hiện tượng hy hữu thờ Bồ Tát trong nhà Chúa là do dữ kiện lịch sử này, chứng minh với tâm từ bi và năng lượng nhiệm mầu, linh hiển mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã kịp thời cứu vớt sinh mạng hàng ngàn người vô tội.
Nương lời kinh tán thán công đức vị Bồ Tát ngàn mắt ngàn tay, hàng Phật tử chúng con, năm vóc sát đất, cung kính cúi đầu đảnh lễ:
"Nam Mô Đức Quán Thế Âm
Vẹn toàn công hạnh, ân thâm cao dày
Cam-lồ nước mát trên tay
Tưới lên sân hận dịu ngay oán thù
Nhiệm mầu thay, nhánh liễu tơ,
Nhẹ nhàng phẩy sạch nhuốc nhơ bụi trần
Tai lắng nghe, mắt thương nhìn
Xót đau cùng khắp  sinh linh ta-bà
Nơi tận khổ, Ngài hiện ra
Từ bi cứu độ hằng hà trầm luân
Công vô lượng, Đức vô ngần,
Làm sao báo đáp muôn phần từ tâm!
Nam Mô Đức Quán Thế Âm."
NAM MÔ QUÁ KHỨ CHÁNH PHÁP MINH
HIỆN TIỀN QUÁN TỰ TẠI
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.
 Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, Xuân muộn 2009)
(Hướng về Lễ Hội Quan Âm ngày 27 & 28 tháng ba năm 2009  tại Trung Tâm Phật Giáo, chùa Việt Nam, Houston, Texas)  
ĐÊM VÀ
HỬNG ĐÔNG
                
Hạnh Chi

Nghiêng bên song cửa
Trăng ghé bồ đoàn
Lặng thinh thiền tọa
Cùng hương lan

Thở vào tĩnh lặng
Thở ra bình an
Hương lan còn thoảng,
Trăng đã tàn.

Chuông ngân nhẹ,
Mõ công phu
Lung linh bạch lạp
Dáng thiền-sư

Ngũ trược ác thế,
Xin nguyện về.
Án, a na lệ,
Tỳ xá đề

Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am,
trăng tháng ba/09)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.