Hỏi (Ông Lê V.T): Vợ tôi đến nhà bạn chơi và xui cho bà ta là nhà của người bạn bị cảnh sát xét. Sau khi lục xét cảnh sát đã tìm thấy hơn 2 ký bạch phiến được cất giấu nhiều nơi trong căn nhà của bạn. Thế là vợ tôi cùng 2 vợ chồng người bạn bị cảnh sát điệu về đồn sau đó bị cáo buộc tội buôn bán ma túy với số lượng lớn hơn số lượng thương mãi. Vợ tôi đã ra tòa một lần nhưng không chịu nhận tội. Đơn xin tại ngọai của bà đã bị bác.
Xin luật sư cho biết là vợ tôi có thể xin tại ngọai nữa hay không. Trong trường hợp vợ tôi không hề hay biết gì về việc buôn bán ma túy của vợ chồng người bạn liệu vợ tôi có được trắng án hay không"
*
Trả lời: Điều 25(1) của “Đạo Luật về Sự Lạm Dụng và Buôn Bán Ma Túy” (The Drug Misuse and Trafficking Act) quy định rằng: “Người cung cấp, hoặc cố ý tham dự vào việc cung cấp, một lượng ma túy không ít hơn số lượng thương mãi . . . sẽ bị tội về sự vi phạm đó” (A person who supplies, or who knowingly takes part in the supply of, an amount of a prohibited drug which is not less than the commercial quantity ... is guilty of an offence).
Trong vụ R v Knight; R v Biuvanua [2007] NSWCCA 283, bị cáo cô Knight buôn bán ma túy. Do việc nghe lén điện thọai, cảnh sát biết được rằng Cô Knight buôn bán ma túy và việc buôn bán này được sự trợ giúp của chồng là ông Biuvanua.
Vào ngày 29.9.2005 cảnh sát đã lục xét nhà của bị cáo và biết được rằng bị cáo đang buôn bán ma túy. Số lượng ma túy mà cảnh sát đã cáo buộc bị cáo được xét thấy tại nhà của bị cáo là ecstacy tổng cộng 961grams.
Cảnh sát cho rằng bị cáo là “thủ lãnh của nhóm buôn bán ma túy gồm một số các người đàn ông họat động như là những người điều hành” (the head of a drug syndicate which involved a number of men who acted as runners).
“Những người này đã thay mặt cô ta bán ma túy và trao tiền lời lại cho cô ta. Bị cáo cung cấp các số lượng các lọai ma túy khác nhau và đã chuẩn bị sắp xếp các hợp chất pha trộn đặc biệt tùy theo nhu cầu riêng biệt của người mua”. (These men sold drugs on her behalf returning the profits to her. She supplied quantities of various drugs and was prepared to arrange special mixtures depending on a particular customer’s needs).
“Bị cáo dùng những người này, cả ông Biuvanua, để giúp phân lọai, cân và để ma túy vào bao bì” (The accused used persons, including Ông Biuvanua, to help sort, weigh and package the drugs).
Từ các cú điện thọai người ta biết được rằng bị cáo đã cung cấp những lượng ma túy khá lớn. Một vài khách hàng của bị cáo mua để xử dụng. Nhà của bị cáo được mở cửa vào ban đêm để cho những người điều hành phân phối ma túy, mặc dầu những người mua ma túy để xử dụng cũng đến để mua.
Bị cáo cũng giữ sổ sách về những việc mua bán này và điều này đã cho thấy có những lúc bị cáo đã bán ma túy với một số lượng khá lớn.
Việc ghi âm các cú điện thọai cho thấy bị cáo điều hành việc buôn bán ma túy vào những ngày giờ như sau: Đóng cửa các ngày Thứ Hai. Bị cáo nói vớ người hùn vốn là từ nay bị cáo sẽ làm việc thường trực. Bị cáo đã mướn người anh em họ làm việc cho bị cáo.
Những cú điện thọai giữ bị cáo và ông Biuvanua cho thấy rằng ông Biuvanua đã trợ giúp trong công việc này như là một thuộc hạ vì ông ta có nhiệm vụ thay mặt bị cáo để nhận hàng hoặc đi lấy ma túy từ nhà kho cho bị cáo bất cứ khi nào bị cáo cần.
Vào ngày 8.9. và 30.9.2005, bị cáo nhận tội cung cấp một lượng ecstacy không ít hơn số lượng thương mãi. Riêng chồng của bị cáo nhận tội “cố ý tham dự vào việc buôn bán ecstacy vớ số lượng thương mãi” (knowingly take part in the supply of a large quantity of ecstacy).
Bản tường trình trước khi tuyên án cho thấy rằng bị cáo, cô Knight, được 34 tuổi vào lúc tuyên án. Trước đây cô ta từng bị kết tội ăn cắp đồ trong tiệm, nhưng tòa đã tha. Sau đó cô ta kết hôn với ông Biuvanua và có 2 đứa con gái sau 15 năm hôn phối.
Có bằng chứng về y khoa cho thấy rằng bị cáo đã xử dụng ma túy vào lúc 11 tuổi. Cô ta đã uống rượu lúc 12 tuổi, và dùng amphetamine vào lúc 17 tuổi. Từ năm 26 tuổi cô ta thường xuyên xử dụng ma túy.
Bị cáo cho tâm lý gia biết rằng cô ta đã bị hiếp vào lúc 8 tuổi. Từ lúc 11 tuổi cho đến 15 tuổi cô ta đã trợ giúp việc buôn bán ma túy.
Sau khi bị cáo bị bắt, một người con gái của bị cáo đã tự tử một lần nhưng không chết.
Tòa đã tuyên án bị cáo 10 năm tù ở và buộc bị cáo phải thụ hình tối thiểu là 6 năm. Riêng chồng của bị cáo tòa đã tuyên xử 3 năm 6 tháng tù và buộc phải thụ hình tối thiểu là 2 năm. Công tố viện bèn kháng án vì cho rằng bản án không thích đáng.
Vào lúc kháng án, công tố viện đồng ý với việc vị thẩm phán tọa xử đưa ra bản án với mức trung bình. Tuy nhiên, thời gian buộc phải thụ hình tối thiểu không phản ánh được hình phạt mà phán quyết đã đưa ra.
Công tố viện cho rằng vị thẩm phán tọa xử đã thiếu sót vì không chịu đưa ra lý do khi tuyên bố thời gian mà bị cáo phải thụ hình tối thiểu.
Công tố viện cho rằng vị thẩm phán tọa xử đã sai lầm khi chấp nhận tình cảnh mà bị cáo đã trải qua và quên đi việc đánh giá đúng đắn về sự nghiêm trọng của tội trạng.
Riêng về chồng của bị cáo, ông Buivanua, công tố viện không khiếu nại về mức độ mà ông ta đã can dự vào tiến trình buôn bán ma túy, cũng như không khiếu nại về tỷ lệ của bản án khi so sánh với bản án của bị cáo. Tuy nhiên, công tố viện đã cho rằng bản án dành cho ông Biuvanua là không thích đáng và đề nghị được tuyên án lại.
Luật sư của bị cáo cho rằng những lập luận của công tố viện hòan tòan vô lý, và đã yêu cầu tòa kháng án hình sự về những nguyên tắc cần phải áp dụng khi công tố viện kháng án. Đồng thời lưu ý tòa về thẩm quyền tùy tiện của tòa khi quyết định về việc kháng án của công tố viện. Cuối cùng, Tòa Kháng Án Hình Sự đã giữ nguyên phán quyết mà tòa án vùng đã tuyên phạt ông Biuvanua. Riêng bản án của bị cáo, Cô Knight, Tòa đã tuyên phạt cô ta 14 năm 4 tháng [thay vì 10 năm như tòa án vùng đã tuyên phạt], và buộc cô phải thụ hình tối thiểu là 10 năm.
Dựa vào luật pháp cũng như phán quyết vừa trưng dẫn ông có thể thấy được rằng tội trạng mà vợ ông bị cáo buộc là một tội trạng hình sự nghiêm trọng vì hình phạt tối đa dành cho tội trạng này là 25 năm tù. Tuy nhiên, nếu vợ ông ngay tình và hoàn toàn không hề hay biết gì về số lượng bạch phiến đó thì chắc chắn rằng vợ ông sẽ được tha bổng. Việc này còn tùy thuộc vào lời khai của vợ chồng người bạn.
Tòa sơ thẩm thường có khuynh hướng bác bỏ thỉnh cầu xin tại ngoại liên hệ đến các tội trạng này. Vì thế, nếu muốn kháng án về quyết định này của tòa sơ thẩm ông phải nộp đơn xin tại ngọai tại Tối Cao Pháp Viện của Tiểu Bang.
Nếu ông còn thắc mắc xin điện thoại cho chúng tôi để được giải đáp.