Tiếp đến là bàn thờ Đức Khổng Tử. Bàn thờ này giống y như bàn thờ trong chùa huyện Khúc Phụ, quê sinh của Khổng Tử, giữa năm 1934-1935. Con cháu Khổng Tử cho phép các nghệ sĩ Trung Hoa tạc bàn thờ này theo mẫu bàn thờ nói trên. Hình Đức Khổng Tử (551-479 trước TL) đeo huy hiệu nhà Chu (trị từ năm 1129-249 trước TL) trong tay cầm chiếu chỉ và vương trượng vua ban biểu tượng cho quyền binh trong lãnh vực tư tưởng. Trước tượng là cái bàn dâng lễ vật trưng bày ba cái bình thuộc thế kỷ XI sau TL. bên trên là một bảng mạ vàng khắc các hàng chữ sau đây: Ngai thiêng của Đức Khổng Phu Tử, thầy đây giáo huấn thánh thiện nhất.
Xa hơn một chút là khu vực trưng bày các tác phẩm liên quan đến Phật Giáo. Tủ kính A3: Tượng Đức Phật và hai đồ đệ. Đằng trước là ba cái bình thuộc một ngôi chùa Bắc Kinh. Bên trong tủ kính cũng có một tượng nữ thần của sự sinh sôi nảy nở rất được dân chúng Trung Hoa sùng kính. Sau này Phật giáo du nhập Trung Hoa, nữ thần ấy trở thành Quan Thế Âm Bồ tát.
Tủ kính A4 trưng bày cả tượng Đức Phật (bên trái) và Quan Thế Âm Bồ Tát (bên phải). Bên ngoài tủ kính là các bức tượng khác của hai vị. Đáng chú ý là đầu của một nhà sư thuộc vùng Lohan và tượng đá của một nhà sư khác sống dưới triều nhà Minh 1368-1644 sau TL.
Tủ kính A5 chén bát Trung Hoa với chữ Ả Rập chứng minh cho sự hiện diện của hồi giáo tại Trung Quốc. Bên cạnh tủ kính là một tấm bia đá chứng tích đầu tiên hiện diện của Kitô Giáo tại Trung Quốc. Bia đá này đã được khắc và dựng năm 781 và đươc tìm thấy tại Tây An Phú thuộc tỉnh Thiểm Tây. Năm 1916 ông Fritz Holm đã cho tạc theo như bia đá, mẫu tại chính nơi và tặng cho Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV.
Trong một khuông nhỏ là bàn thờ Kitô chạm trổ theo kiểu Trung Hoa (Phù Nhân Bắc Kinh). Bên cạnh là bức tượng đồng linh mục Marccellus sterkendies. Giữa năm 1911-1912 cha Sterkendies đã cứu thành phố Kinh Châu khỏi cảnh hoang. Nhờ ơn cha dân ngoại trong vùng đúc tượng này kỷ niệm và tặng nhiều bình cổ rất quý. Và sau đó nhiều người xin theo đạo.
Nhật Bản
Lối vào B1: Hai con sư tử bằng gỗ mạ vàng (koma-inu) canh cổng và che chở khỏi các thần dữ.
Tủ kính B 2 gần tường: Mô hình một ngôi đền Thần Đạo tại cố đô Nera Nhật Bản.
Lối vào B1: Hai con sư tử bằng gỗ mạ vàng (koma-inu) canh cổng và che chở khỏi các thần dữ.
Tủ kính B gần tường: mô hình một ngôi đền thần đạo tại cố đô Nera Nhật Bản.
Tủ kính B3 gần tường: Ba ngôi đền nhỏ đặt trong vườn, phía trước là các bình đựng rượu, nước gạo và nước hoa, gương biểu tượng cho nữ thần mặt trời Amaterasu và con cáo tượng trưng cho các thần gạo và thần phong phú.
Tủ kính B gần vách: Các mặt nạ thần đạo khác nhau, các số 10068-10069 diễn tả con sư tử nhỏ và con sư tử lớn của kịch nghệ No. Ngày xưa hai mặt nạ này được khắc bằng gỗ thông Sughi-di-Dohi.
Bên ngoài tủ kính: Một bình đựng hương bằng kim khí (chân gỗ mới làm sau này) có khắc các cảnh và hình thần thoại của than giáo. Chính giữa mề đai phía trên là hình nữ thần Amaterasu (cố tổ của hoàng gia Nhật) giao chiến với mặt trời và mặt trăng (thế kỷ XVIII).
Thần giáo là tôn giáo xuất phát tại Nhật nhưng vào thế kỷ VI sau TL trộn lẫn với Phật giáo từ Trung Hoa.
Trong tủ kính bên trên có tượng của 13 kakemomo tức các vị bồ tát, được kính nhớ vào các ngày giỗ kỵ người chết.
Tủ kính B5: Trưng bày các tác phẩm liên quan đến Phật giáo Nhật Bản. Hình một nhà sư Nhật trong sắc phục của các lễ nghi tế tự long trọng. Bên cạnh là 8 văn bản chép các kinh kệ. Đó là bản sao cuốn sách Hokeykyo là sách kinh Phật. Bản chính do nhà sư Kansho viết năm 1289 hiện nay còn được giữ tại Chùa Nyoholi.
Trong tủ kính B6, B7 trình bày hai Bursudan tức là bàn thờ đặt trong nhà với các bình dâng lễ vật, các tượng thần của thần giáo và Phật giáo và các thẻ thờ kính ông bà. Các bàn thờ này là chứng tích hùng hồn cho thấy sắc thái trộn lẫn tôn giáo tại Nhật Bản.
Tủ kính B8: Hình các thánh tử đạo Nhật Bản bị giết tại Nagasaki do họa sĩ Okayama Shunkyo thành phố Kyotô vẽ.
Đại Hàn:
Trong các khung C1, C2, C3 trưng bày các tác phẩm nghệ thuật Đại Hàn có ba mô hình: Mô hình hoàng cung Seoul nhà của một gia đình giàu có và nhà của một dân nghèo, các hộp sơn mài, một cái tủ cổ theo kiểu Đại Hàn 5 chiếc bình cổ theo kiểu Trung Hoa. Trong khung C3 trưng bày chén bát và chơi cũng như đồ trang sức.
Khung C4 trưng bày y phục: quốc phục của nam giới và nữ giới mũ đội ngày thường và mũ đội trong dịp lễ lạy, mô hình một khung dệt cửu.
Khung C3 trưng bày các tác phẩm liên quan đến cuộc sống tôn giáo, chính giữa là một bàn thờ, các bình chứa lễ vật. Bên trái bảng dựng trong các ngày lễ bình dân. Bên trên là dụng cụ in sách giáo lý đầu tiên Đại Hàn và hai bản viết mười điều răn Chúa.
Tây Tạng-Mông Cổ
Khung B1 trưng bày các tác phẩm mang sắc thái Lạt Ma Tây Tạng. Hình thần linh gọi là Bonpô trống làm bằng sọ người, Sáo làm bằng xương ống người chết.
Khung D2 trưng bày hình hai nhà sư tượng trưng cho hai phái đại thừa, tiểu thừa.
Khung D3 trưng bày các tượng các thánh tích và dụng cụ phung tự khác nhau. Đáng chú ý hai bức tượng Phật Bà Quan Âm trước đời Minh. Phía sau lều của một Lạt Ma Mông Cổ.
Chính giữa phòng là mô hình Chùa Chu Giang Hiến về phía Đông Mông Cổ do nhà sư Chu Uyên Tế xây. Ông là một đồ đệ do Đức Đạt Lai Lạt Ma thành sai đến Mông Cổ truyền đạo. Ngôi chùa thứ nhất gọi là chùa của bốn thần canh bốn phần trái đất.
Xa hơn một chút là khu vực trưng bày các tác phẩm liên quan đến Phật Giáo. Tủ kính A3: Tượng Đức Phật và hai đồ đệ. Đằng trước là ba cái bình thuộc một ngôi chùa Bắc Kinh. Bên trong tủ kính cũng có một tượng nữ thần của sự sinh sôi nảy nở rất được dân chúng Trung Hoa sùng kính. Sau này Phật giáo du nhập Trung Hoa, nữ thần ấy trở thành Quan Thế Âm Bồ tát.
Tủ kính A4 trưng bày cả tượng Đức Phật (bên trái) và Quan Thế Âm Bồ Tát (bên phải). Bên ngoài tủ kính là các bức tượng khác của hai vị. Đáng chú ý là đầu của một nhà sư thuộc vùng Lohan và tượng đá của một nhà sư khác sống dưới triều nhà Minh 1368-1644 sau TL.
Tủ kính A5 chén bát Trung Hoa với chữ Ả Rập chứng minh cho sự hiện diện của hồi giáo tại Trung Quốc. Bên cạnh tủ kính là một tấm bia đá chứng tích đầu tiên hiện diện của Kitô Giáo tại Trung Quốc. Bia đá này đã được khắc và dựng năm 781 và đươc tìm thấy tại Tây An Phú thuộc tỉnh Thiểm Tây. Năm 1916 ông Fritz Holm đã cho tạc theo như bia đá, mẫu tại chính nơi và tặng cho Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV.
Trong một khuông nhỏ là bàn thờ Kitô chạm trổ theo kiểu Trung Hoa (Phù Nhân Bắc Kinh). Bên cạnh là bức tượng đồng linh mục Marccellus sterkendies. Giữa năm 1911-1912 cha Sterkendies đã cứu thành phố Kinh Châu khỏi cảnh hoang. Nhờ ơn cha dân ngoại trong vùng đúc tượng này kỷ niệm và tặng nhiều bình cổ rất quý. Và sau đó nhiều người xin theo đạo.
Nhật Bản
Lối vào B1: Hai con sư tử bằng gỗ mạ vàng (koma-inu) canh cổng và che chở khỏi các thần dữ.
Tủ kính B 2 gần tường: Mô hình một ngôi đền Thần Đạo tại cố đô Nera Nhật Bản.
Lối vào B1: Hai con sư tử bằng gỗ mạ vàng (koma-inu) canh cổng và che chở khỏi các thần dữ.
Tủ kính B gần tường: mô hình một ngôi đền thần đạo tại cố đô Nera Nhật Bản.
Tủ kính B3 gần tường: Ba ngôi đền nhỏ đặt trong vườn, phía trước là các bình đựng rượu, nước gạo và nước hoa, gương biểu tượng cho nữ thần mặt trời Amaterasu và con cáo tượng trưng cho các thần gạo và thần phong phú.
Tủ kính B gần vách: Các mặt nạ thần đạo khác nhau, các số 10068-10069 diễn tả con sư tử nhỏ và con sư tử lớn của kịch nghệ No. Ngày xưa hai mặt nạ này được khắc bằng gỗ thông Sughi-di-Dohi.
Bên ngoài tủ kính: Một bình đựng hương bằng kim khí (chân gỗ mới làm sau này) có khắc các cảnh và hình thần thoại của than giáo. Chính giữa mề đai phía trên là hình nữ thần Amaterasu (cố tổ của hoàng gia Nhật) giao chiến với mặt trời và mặt trăng (thế kỷ XVIII).
Thần giáo là tôn giáo xuất phát tại Nhật nhưng vào thế kỷ VI sau TL trộn lẫn với Phật giáo từ Trung Hoa.
Trong tủ kính bên trên có tượng của 13 kakemomo tức các vị bồ tát, được kính nhớ vào các ngày giỗ kỵ người chết.
Tủ kính B5: Trưng bày các tác phẩm liên quan đến Phật giáo Nhật Bản. Hình một nhà sư Nhật trong sắc phục của các lễ nghi tế tự long trọng. Bên cạnh là 8 văn bản chép các kinh kệ. Đó là bản sao cuốn sách Hokeykyo là sách kinh Phật. Bản chính do nhà sư Kansho viết năm 1289 hiện nay còn được giữ tại Chùa Nyoholi.
Trong tủ kính B6, B7 trình bày hai Bursudan tức là bàn thờ đặt trong nhà với các bình dâng lễ vật, các tượng thần của thần giáo và Phật giáo và các thẻ thờ kính ông bà. Các bàn thờ này là chứng tích hùng hồn cho thấy sắc thái trộn lẫn tôn giáo tại Nhật Bản.
Tủ kính B8: Hình các thánh tử đạo Nhật Bản bị giết tại Nagasaki do họa sĩ Okayama Shunkyo thành phố Kyotô vẽ.
Đại Hàn:
Trong các khung C1, C2, C3 trưng bày các tác phẩm nghệ thuật Đại Hàn có ba mô hình: Mô hình hoàng cung Seoul nhà của một gia đình giàu có và nhà của một dân nghèo, các hộp sơn mài, một cái tủ cổ theo kiểu Đại Hàn 5 chiếc bình cổ theo kiểu Trung Hoa. Trong khung C3 trưng bày chén bát và chơi cũng như đồ trang sức.
Khung C4 trưng bày y phục: quốc phục của nam giới và nữ giới mũ đội ngày thường và mũ đội trong dịp lễ lạy, mô hình một khung dệt cửu.
Khung C3 trưng bày các tác phẩm liên quan đến cuộc sống tôn giáo, chính giữa là một bàn thờ, các bình chứa lễ vật. Bên trái bảng dựng trong các ngày lễ bình dân. Bên trên là dụng cụ in sách giáo lý đầu tiên Đại Hàn và hai bản viết mười điều răn Chúa.
Tây Tạng-Mông Cổ
Khung B1 trưng bày các tác phẩm mang sắc thái Lạt Ma Tây Tạng. Hình thần linh gọi là Bonpô trống làm bằng sọ người, Sáo làm bằng xương ống người chết.
Khung D2 trưng bày hình hai nhà sư tượng trưng cho hai phái đại thừa, tiểu thừa.
Khung D3 trưng bày các tượng các thánh tích và dụng cụ phung tự khác nhau. Đáng chú ý hai bức tượng Phật Bà Quan Âm trước đời Minh. Phía sau lều của một Lạt Ma Mông Cổ.
Chính giữa phòng là mô hình Chùa Chu Giang Hiến về phía Đông Mông Cổ do nhà sư Chu Uyên Tế xây. Ông là một đồ đệ do Đức Đạt Lai Lạt Ma thành sai đến Mông Cổ truyền đạo. Ngôi chùa thứ nhất gọi là chùa của bốn thần canh bốn phần trái đất.
Gửi ý kiến của bạn