Prince Street là con đường trồng cây dọc hai bên lề thuộc khu SoHo, và khu vực này đã trải qua sự thay đổi rất lớn trong năm 1979. Khởi đầu là một vùng kỹ nghệ gồm các nhà máy, kho chứa hàng và các cơ sở kinh doanh, SoHo đang biến đổi thành một khu khá giả với phần lớn cư dân là những người trẻ tuổi có nghề nghiệp chuyên môn cao. Họ đến sống trong khu vực này với nhiều tiền bạc và các ý tưởng mới. Họ biến các kho chứa hàng bỏ hoang trở thành các tòa chung cư khang trang, trong khi các nhà máy cũ kỹ trở thành các nhà hàng ăn uống, các quán cà phê rất hợp thời.
Mang trên vai chiếc túi đựng sách vở, đứa bé trai với nụ cười tươi đi tung tăng ngang qua các cửa tiệm. Cậu bé ngoái đầu nhìn mẹ cho tới khi bước tới góc đường, hai mẹ con vẫy tay tạm biệt. Ở phía xa hơn một chút, bà mẹ nhìn thấy một đám học sinh đang đứng chờ ở trạm xe buýt. Bà yên tâm trở vào nhà để chăm sóc hai đứa con khác. Và đó là lần cuối cùng người mẹ nhìn thấy đứa con trai yêu qúy của mình.
Đứa bé trai sáu tuổi này tên là Etan Patz. Chỉ trong vài phút, Etan đã bị bắt cóc trên đường phố bận rộn của vùng SoHo. Những gì thật sự đã xảy ra với em bé này vẫn là một sự bí ẩn hết sức đau lòng. Cho đến nay số phận của Etan vẫn không biết ra sao. Trường hợp của Etan Patz là vụ án trẻ em mất tích chưa được giải quyết cũ nhất của thành phố Nữu Ước, có lẽ cũ nhất của cả đất nước Hoa Kỳ. Trong năm 2003, cảnh sát ngờ vực Jose Antonio Ramos, người đàn ông 60 tuổi bị kết tội hiếp dâm trẻ em và hiện đang bị giam trong nhà tù Pennsylvania.
Trong năm 2002, cha mẹ đau khổ của bé Etan công bố đứa con trai đã chết về mặt luật pháp và hoạch định kiện Ramos trong tòa án dân sự. Họ làm điều này nhằm buộc Ramos phải xuất hiện trước tòa để họ có thể hỏi hắn điều gì đã xảy ra với Etan. Mỗi năm, vào ngày sinh nhật của Etan, người cha đều gửi một tấm thiệp cho Ramos hỏi hắn đã làm gì với đứa con trai của họ.
Hành động bắt cóc trẻ em được xem tương đương với một vụ nổ bom nguyên tử trong một gia đình. Trong nhiều mặt, có một đứa con bị bắt cóc và không biết số phận của nó ra sao, như trường hợp của bé Etan Patz, thì còn tệ hại hơn cái chết thật sự của đứa bé. Người cha của bé Etan, ông Stanly Patz đã có lần viết rằng: “Trong tội ác này, có sự bắt đầu nhưng không có sự kết thúc.” Sự tra tấn tâm lý này làm cho cha mẹ bị đau khổ không lúc nào nguôi. Nhưng cũng may chỉ có rất ít các trường hợp bi thảm như bé Etan. Hầu hết các vụ bắt cóc đều kết thúc với kết quả rõ ràng. Trong một số trường hợp, nó là sự bắt đầu một đời sống sầu khổ của các cha mẹ bị tan nát cõi lòng.
Trong một cố gắng để định rõ vấn đề trẻ em mất tích, cơ quan National Incidence Studies of Missing, Abducted, Runaway and Throwaway Children (NISMART), đã thực hiện một dự án nghiên cứu đại quy mô trong năm 1988. Và một cuộc khảo sát bổ sung đã được thực hiện trong năm 1999 có tên là NISMART 2. Được bảo trợ bởi Bộ Tư Pháp và sử dụng các dữ liệu thu thập được trong hơn 16,000 cuộc phỏng vấn ở khắp đất nước Hoa Kỳ, NISMART 2 là kho dữ kiện cập nhật về trẻ em mất tích.
Có ba sự định nghĩa chính được sử dụng để miêu tả các tình huống khác nhau của vấn đề trẻ em bị bắt cóc. Tình huống thứ nhất được gọi là non-family abduction. NISMART 2 định nghĩa trường hợp này là “khi một kẻ phạm tội không phải là thân nhân trong gia đình dùng sức mạnh để bắt đứa trẻ, hoặc đe dọa hoặc giam giữ đứa trẻ trong ít nhất 1 tiếng đồng hồ tại một nơi riêng biệt”. Tình huống thứ hai là “stereotype kidnapping”, khi một người lạ hoặc quen biết sơ sơ phạm tội bắt cóc, đứa trẻ bị giữ qua đêm, bị đưa đến một nơi xa hơn 50 dậm, bị giữ đòi tiền chuộc, bị bắt cóc với ý định giữ đứa trẻ lâu dài, hoặc giết chết. Và tình huống thứ ba là “family abduction”, xảy ra khi một thành viên trong gia đình vi phạm quyền chăm sóc con cái, và đứa trẻ bị mang giấu đi hoặc đưa ra nước ngoài với ý định ngăn chặn sự liên hệ.
Theo cuộc khảo sát NISMART, mỗi năm ở Hoa Kỳ có hơn 203,900 trẻ em bị bắt cóc bởi một thành viên trong gia đình. Phần lớn các trẻ em này bị bắt cóc bởi cha hoặc mẹ trong thời gian tranh chấp quyền nuôi dưỡng con cái. Các trường hợp này thường kết thúc với đứa trẻ được trao trả cho người cha hoặc mẹ được quyền giữ con, và người phạm tội bị xử phạt. Khoảng 46 phần trăm các vụ bắt cóc này kéo dài ít hơn một tuần lễ. Khoảng 21 phần trăm kéo dài hơn một tháng. Chỉ có 6 phần trăm đứa trẻ không được giao trả cho người cha hoặc mẹ được quyền giữ con. Các cha mẹ bắt cóc con cái thường không phải do động lực bạo động hoặc với mục đích thủ lợi. Các vụ này thường được thúc đẩy bởi sự thù hằn giữa hai cha mẹ, và đứa con vô tội bị mắc kẹt ở giữa hai lằn đạn.
Trong thời gian nghiên cứu cuộc khảo sát, NISMART ước tính có khoảng 58,200 trẻ em là nạn nhân của các vụ bắt cóc bởi những người ngoài gia đình. Trong các vụ bắt cóc này, 53 phần trăm phạm bởi những người quen biết với nạn nhân, như bạn bè, hàng xóm hoặc một người giữ trẻ. Khoảng 75 phần trăm những người phạm tội các vụ bắt cóc này là đàn ông. Các nạn nhân thường ở tuổi từ 12 đến 17 (81%), và hầu hết thường là phái nữ (65%). NISMART tìm thấy rằng 71 phần trăm các vụ bắt cóc này xảy ra bên ngoài nhà như đường phố, công viên, trong xe hoặc trong khu vực có nhiều cây cối. Ít hơn 5 phần trăm xảy ra ngay trong nhà hoặc trong sân của nạn nhân. Động lực của các vụ bắt cóc này là tấn công tình dục hoặc thân thể, chiếm 77% các trường hợp.
PHẠM TỘI ĐỂ CHỨNG TỎ MƯU TRÍ HƠN CẢNH SÁT
Từ ngữ bắt cóc “kidnapping” là một sự biến thể của từ “kid nabbing”, một hành động bắt nguồn ở Anh quốc khi trẻ em bị “bắt: nabbeb” bởi các kẻ cướp biển đem bán cho các chủ đồn điền thuốc lá giầu có ở thuộc địa Mỹ Châu. Theo sử gia về tội ác Colin Wilson, mặc dù nạn bắt cóc tràn lan ở Âu Châu và Á Châu, nó đã không là chuyện thông thường ở Mỹ châu cho tới đầu thế kỷ 20. Mặc dù các trường hợp bắt cóc trẻ em đã hiện hữu, như vụ nổi tiếng Charley Ross năm 1874 ở tiểu bang Philadelphia, chúng rất hiếm khi xảy ra. Trường hợp Ross kết thúc bởi bé trai bốn tuổi Charley bị giết chết (xác của em chẳng bao giờ tìm thấy), và vụ bắt cóc này đã thôi thúc Pennsylvania thông qua đạo luật đầu tiên về nạn bắt cóc của đất nước Hoa Kỳ, theo đó tội bắt cóc sẽ bị xử án 25 năm tù và $100,000 đô-la tiền phạt.
Tuy nhiên cho mãi đến năm 1924, khi hai học sinh thuộc gia đình giầu có bắt cóc một thiếu niên 14 tuổi ở Chicago, người dân Hoa Kỳ mới nhận thức được mối đe dọa ngày càng gia tăng của nạn bắt cóc trẻ em. Nathan Leopold và Richard Loeb, cả hai là con trai của các gia đình thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội, rất giầu có và chỉ quan tâm đến bản thân. Leopold cực kỳ thông minh và chỉ số thông minh I.Q của hắn lên đến gần 200. Ở tuổi 18, Leopold là sinh viên tốt nghiệp trẻ nhất của Đại học Chicago, và nói thông thạo chín ngôn ngữ.
Nathan Leopold có tiền bạc để mua hầu như mọi thứ mà hắn thèm muốn và đã trở thành một kẻ tự cao tự đại được nuông chiều quá mức, một kẻ hợm mình luôn bầy tỏ thái độ khinh bỉ đối với mọi người ngoại trừ Richard Loeb, một người bạn thân và, theo một số người, cũng là người tình đồng tính luyến ái của hắn. Loeb cũng là một sinh viên rất thông minh với một cá tính rất thoải mái. Hắn có một sự quan tâm đặc biệt đến tội ác và các cách ứng xử khác biệt với các chuẩn mực xã hội đã được coi là bình thường.
Loeb dành hầu hết thời giờ để nghĩ ra các kế hoạch phạm tội tinh vi mà có thể thắng được các thám tử giỏi nhất trong nước. Hắn tự cho mình là một bậc thầy về tội phạm, với một sự thông minh siêu đẳng và có thể làm bất cứ điều gì mà không bị bắt. Leopold và Loeb kết hợp hoạch định điều mà chúng nhìn thấy là một “sự phạm tội tuyệt hảo”.
Chúng bắt cóc Bobby Franks, một thiếu niên 14 tuổi con trai của một nhà triệu phú, và đã ngay tức khắc giết chết cậu bé bằng cách đâm vào ót. Chúng thủ tiêu xác chết bằng cách chôn bên trong một đường cống và rồi đổ chất át xít hydrochloric lên trên. Trong cùng hôm đó, Leopold và Loeb gửi đến gia đình Franks một bức thư đòi $10,000 tiền chuộc, và ký tên “George Johnson”. Dĩ nhiên cả hai Leopold và Loeb đều không cần tiền. Đây chỉ là một mưu mẹo để đánh lừa các nhà điều tra. Thế nhưng tiền chuộc đã chẳng bao giờ được trao. Xác chết của Bobby Franks đã mau lẹ được tìm thấy và nhận diện. Một cuộc săn lùng lớn nhất trong lịch sử Chicago được khởi động để tìm các kẻ giết chết đứa con trai của gia đình Franks.
Không thể cưỡng lại sự thèm muốn, Loeb đã tham gia vào cuộc tìm kiếm. Hắn đã trợ giúp cảnh sát trong các cuộc lục soát, trả lời điện thoại và giúp thu thập tin tức từ các nhân chứng. Loeb cũng đã đưa ra sự suy luận của chính mình về tội ác này, cho các ý kiến về mọi thứ từ vũ khí giết người tới loại người đã phạm tội ác ghê rợn này. Cảnh sát ngày càng ngờ vực Loeb nhưng không nói ra. Và rồi các nhà điều tra tìm thấy một số chứng cớ quan trọng, gồm vũ khí giết người là một cái đục bằng sắt. Gần đường cống mà xác của Bobby Franks được chôn, cảnh sát tìm thấy một cặp kính cận, và đã truy nguyên được công ty đã sản xuất nó một năm trước đó. Chỉ có ba cặp mắt kính với kiểu gọng đó đã được bán. Một cặp được bán cho Nathan Leopold.
Trước bằng chứng này và chiếc máy đánh chữ được dùng để viết bức thư đòi tiền chuộc, cả hai kẻ tình nghi cuối cùng đã thú tội. Trong một phiên tòa gây ra sự xúc động mạnh mẽ được tổ chức ở Chicago trong mùa hè năm 1924, Leopold và Loeb bị phát hiện phạm tội giết chết Bobby Franks. Sau một lời cầu xin khẩn thiết bởi luật sư nổi tiếng Clarence Darrow, chúng bị xử án mỗi người 99 năm tù cho tội ác này. Loeb sau này đã bị giết chết trong tù bởi một tù nhân khác, kẻ đã từ khước hành động đồng tính luyến ái của hắn. Leopold được khoan hồng trong năm 1958 và di chuyển đến sống ở Puerto Rico. Hắn chết ở đó trong năm 1971.
Vụ bắt cóc và giết chết cậu bé Bobby Franks đã làm khiếp sợ các bậc cha mẹ ở Hoa Kỳ. Nó cho thấy một đứa bé có thể bị bắt cóc và giết chết mà chẳng có lý do rõ ràng nào cả. Leopold và Loeb đã phạm tội ác này chỉ với mục đích chứng tỏ giỏi hơn cảnh sát. Vụ án Leopold và Loeb là một trong những vụ bắt cóc nổi bật nhất trong thập niên 1920 và 30 mà đã làm tất cả các gia đình ở Hoa Kỳ khiếp sợ. Sự lo sợ của họ đã đến cực điểm trong năm 1927 khi một kẻ chuyên giết chết trẻ em đã xuất hiện nổi bật trên trang nhất của mọi tờ báo khắp đất nước. Hắn ta là một sinh viên bỏ dở đại học, một người có đời sống là một chuỗi các sự thất bại và bị ruồng bỏ. Thật mỉa mai, hắn tự đặt biệt danh cho mình là “The Fox”.
SÁT THỦ EDWARD HICKMAN “THE FOX”
Trong ngày 15 tháng 12 năm 1927, Marion Parker, cô con gái 12 tuổi của ông Perry Parker, một giám đốc ngân hàng nổi tiếng ở Los Angeles, đã bị bắt cóc từ trường học. Một người đàn ông đã đến phòng hiệu trưởng nói rằng cha của em Marion bị thương trầm trọng trong một tai nạn khủng khiếp. Các bức thư đòi tiền chuộc đã gửi đến người cha trong vài ngày, tất cả được ký với các tên như “Fate”, “Death” và “The Fox”. Cuộc thương lượng với kẻ tình nghi đã tiếp tục cho tới khi đạt được một thỏa thuận giá cả và ngày giờ trao tiền được ấn định.
Ông Parker bỏ số tiền chuộc, $1500 tiền mặt, vào một chiếc túi đen và lái xe tới gặp “The Fox”. Tại địa điểm hẹn, ông Parker trao tiền cho một người đàn ông trẻ đang ngồi chờ trong một chiếc xe hơi. Khi ông Parker trả tiền chuộc, ông đã có thể nhìn thấy con gái, Marion, đang ngồi ở ghế trước bên cạnh kẻ tình nghi. Không bao lâu sau khi tiền bạc được trao tay, kẻ tình nghi đã chạy mất với nạn nhân vẫn ngồi trong xe. Tại cuối con đường, xác chết của Marion bị vứt trên lề đường. Cô bé đã chết từ lâu, hai chân bị chặt cụt và hai mắt được xâu dây kẽm mở to trông như thể vẫn còn sống. Các bộ phận trong người đã bị cắt xẻo và từng mảng cơ thể sau này được tìm thấy vương vãi khắp khu vực Los Angeles.
Một cuộc săn lùng kẻ giết chết Marion đã được khởi động với sự tham dự của hơn 20,000 nhân viên cảnh sát và rất nhiều người tình nguyện. Các số tiền thưởng khổng lồ được đưa ra cho bất cứ ai cung cấp tin tức đưa đến việc bắt giữ “The Fox”. Sự ngờ vực đã mau lẹ chỉa vào người cựu nhân viên của ông Parker có tên là William Edward Hickman. Vài năm trước khi xảy ra vụ bắt cóc, Hickman đã bị kết án và đã thọ án. Các nhà điều tra đã so sánh dấu tay của hắn với các dấu tay được tìm thấy trên bức thư đòi tiền chuộc, và chúng rất giống. Hình ảnh của Hickman đã được phổ biến trên khắp các tờ báo và được gửi tới mọi trạm cảnh sát ở vùng duyên hải phía tây.
Chỉ một tuần lễ sau vụ bắt cóc giết người này, hai cảnh sát viên đã tìm thấy kẻ bị truy nã ở Echo, Oregon. Hickman đã bị dẫn độ về Los Angeles và đã mau lẹ thú nhận thêm một tội giết người khác mà hắn đã phạm trong vụ cướp tại một tiệm thuốc tây. Hắn đã nói với các nhà điều tra rằng: “Marion và tôi là bạn rất thân, và chúng tôi thật sự đã có một thời gian rất vui vẻ khi sống chung với nhau, và tôi thật sự rất thích cô ấy. Tôi rất lấy làm hối tiếc Marion đã bị giết chết.” Hickman đã chẳng bao giờ nói lý do tại sao hắn đã giết chết và rồi chặt chân cô bé. Mặc dù các luật sư đã cố biện hộ cho Hickman bị mất trí, hội thẩm đoàn đã không chấp nhận. Hickman đã bị kết tội giết người và bị treo cổ tại nhà tù San Quetin trong năm 1928.
VỤ BẮT CÓC LÀM CHẤN ĐỘNG ĐẤT NƯỚC HOA KỲ
Vụ án Marion Parker đã gây choáng váng và khích động quần chúng Hoa Kỳ nổi giận đòi trả thù những kẻ bắt cóc. Tuy thế vụ án bắt cóc trẻ em nổi tiếng nhất thậm chí vẫn chưa xảy ra. Nạn nhân là con trai của một nhân vật được tôn sùng khắp thế giới và là người đã trở thành một trong những thần tượng của nền văn hóa Hoa Kỳ. Đứa bé bị bắt cóc tên là Charles A. Lindbergh Jr.
Vào ngày 22 tháng Năm, 1927, phi công Charles Lindbergh, 25 tuổi, đã một mình không ngừng nghỉ bay băng ngang Đại Tây Dương và đáp xuống Paris. Được các đám đông khổng lồ bầy tỏ sự ngưỡng mộ ở bất cứ nơi đâu ông đi đến, ông Lindbergh là người rất thầm lặng, luôn tránh sự chú ý và đã mau lẹ trở nên mệt mỏi bởi sự nổi tiếng của mình. Sinh đẻ ở Đức, giầu có và đẹp trai, viên phi công trẻ tuổi và người vợ rất muốn rút vào cuộc sống riêng tư. Gia đình xây một biệt thự rất lớn trên một khu đất rộng 400 mẫu nhiều cây cối ở New Jersey, gần tỉnh Hopewell. Họ sống yên bình ở đó cho đến buổi tối ngày 1 tháng Ba năm 1932, khi cuộc sống của họ đã bị làm thay đổi mãi mãi.
Trong buổi tối buốt giá đó, Charles Jr., đứa con trai 20 tháng tuổi của họ, đã bị bắt đi mất từ chiếc nôi trong nhà. Người giữ trẻ đã khám phá tội ác này vào lúc 10 giờ tối khi cho đứa bé ăn và không thấy nó đâu cả. Ngay tức khắc cảnh sát đã được gọi đến và một cuộc săn tìm kẻ bắt cóc đã được bắt đầu. Cảnh sát tiểu bang New Jersey, được cầm đầu bởi Đại tá Norman Schwarzkopf, cha của viên Đại tướng trong cuộc Chiến vùng Vịnh thời nay, đã lục soát khắp vùng thôn quê này. Kẻ bắt cóc đã liên lạc với gia đình và cuộc thương lượng bắt đầu với số tiền chuộc $50,000. Trong vòng vài tiếng đồng hồ, vài trăm phóng viên truyền thông đã đổ tới khu biệt thự của gia đình Lindbergh để săn tin.
Một người đại diện của gia đình đến gặp kẻ tình nghi và đã trả tiền chuộc. Trước đó các nhà điều tra đã ghi số của các tờ giấy bạc. Nhưng đứa con trai của gia đình Lindbergh đã không được giao trả. Nó được tìm thấy nằm chết ngày 12 tháng Năm, 1932, ở một nơi cách nhà không đầy 4 dặm. Xác chết trong tình trạng bị thối rữa, điều này cho thấy em bé đã bị giết một thời gian trước đó, xương sọ bị đánh nứt và chân trái bị cắt cụt đến đầu gối. Chuyên viên giảo nghiệm tử thi tin tưởng đứa bé đã bị giết chết không bao lâu sau khi bị bắt cóc ngày 1 tháng Ba, nhưng cuộc khám nghiệm tử thi đã chỉ cung cấp rất ít chi tiết cho các nhà điều tra.
Một người đại diện của gia đình đến gặp kẻ tình nghi và đã trả tiền chuộc. Trước đó các nhà điều tra đã ghi số của các tờ giấy bạc. Nhưng đứa con trai của gia đình Lindbergh đã không được giao trả. Nó được tìm thấy nằm chết ngày 12 tháng Năm, 1932, ở một nơi cách nhà không đầy 4 dặm. Xác chết trong tình trạng bị thối rữa, điều này cho thấy em bé đã bị giết một thời gian trước đó, xương sọ bị đánh nứt và chân trái bị cắt cụt đến đầu gối. Chuyên viên giảo nghiệm tử thi tin tưởng đứa bé đã bị giết chết không bao lâu sau khi bị bắt cóc ngày 1 tháng Ba, nhưng cuộc khám nghiệm tử thi đã chỉ cung cấp rất ít chi tiết cho các nhà điều tra.
Câu chuyện về vụ bắt cóc đứa con trai của gia đình Lindbergh đã trở thành tin tức quan trọng hàng đầu được phổ biến khắp thế giới ở một mức độ chưa từng thấy, trong một phương cách mà thường chỉ dành cho tin tức về các biến cố thảm họa, như một trận động đất khủng khiếp hoặc một vụ ám sát vị tổng thống. Kẻ sát nhân đã bị thóa mạ trên báo chí bằng những từ ngữ tệ hại nhất, và nhiều bài xã luận gào thét đòi “treo cổ” hoặc “ném đá” tới chết tên giết người nếu hắn bị bắt trong thời gian đó.
Trong suốt hai năm rưỡi tiếp theo đó, các thám tử đã tiếp tục thẩm vấn các người bạn, những người quen biết, các nhân viên và những người liên hệ với gia đình Lindbergh. Họ thực hiện hàng chục cuộc lục soát ở khắp nơi và bắt giữ một số người đã phạm các trò chơi khăm độc ác nhắm vào gia đình Lindbergh. Cho mãi đến tháng Chín năm 1943, khi một nhân viên bán xăng có đầu óc lanh lợi nhận được một giấy bạc 10 đô-la, các nhà điều tra cuối cùng đã bắt đầu phăng dần ra manh mối. Khi nhân viên trạm xăng so sánh tờ giấy bạc này với tờ bản tin của cảnh sát, trên đó có in số phát hành của các tờ giấy bạc trong số tiền chuộc, chúng hoàn toàn phù hợp. Người nhân viên này liền ghi bảng số xe và trao cho cảnh sát.
Chiếc xe này thuộc chủ quyền của Bruno Richard Hauptmann, một di dân bất hợp pháp người Đức 35 tuổi sinh sống ở Bronx. Cảnh sát đã tức thời bắt giữ Hauptmann và tìm thấy thêm một ít giấy bạc có cùng số phát hành trong ví của hắn. Một cuộc lục soát nhà của Hauptmann đã tìm thấy gần đủ số tiền chuộc $15,000 được giấu trong các bức tường của nhà đậu xe. Thanh gỗ được tìm thấy bên ngoài cửa sổ của nhà ông Lindbergh buổi tối xảy ra vụ bắt cóc rõ ràng đã được tháo ra từ mái tôn garage của hắn. Sau một trong những phiên xử tội phạm sôi động nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, được tổ chức ở Flemmington, New Jersey, trong tháng Giêng năm 1953, Hauptmann đã bị kết tội bắt cóc và giết người. Hắn đã bị xử tử tại nhà tù tiểu bang New Jersey ngày 13 tháng Giêng năm 1956.
DÂN CHÚNG TRỪNG TRỊ BẤT CHẤP LUẬT PHÁP
Trong năm 1933, Brooke Hart, một sinh viên đại học 20 tuổi, bị bắt cóc ở California. Cha của cậu ta là một chủ tiệm buôn bán giầu có, và là một trong những thương gia có máu mặt trong thành phố. Các kẻ bắt cóc đòi $40,000 tiền chuộc. Nhưng trước khi sự thu xếp có thể đạt được, các kẻ tình nghi đã giết chết Hart và vứt xác trong vịnh San Francisco. Được kích động thêm bởi báo chí, công chúng đã vô cùng phẫn nộ trước vụ giết người dã man này.
Nghi phạm của vụ bắt cóc là hai người đàn ông sau đó đã bị bắt và nhốt trong nhà tù thành phố. Vào buổi tối ngày 26 tháng Mười một năm 1933, một đám đông dân chúng đã phá cửa xâm nhập vào nhà tù, đánh cảnh sát trưởng và các nhân viên đến bất tỉnh. Hai kẻ tình nghi bị lôi ra khỏi xà lim. Trước sự chứng kiến đồng tình của 6000 công dân San Jose, hai người đàn ông này đã bị đánh đập tàn nhẫn và cuối cùng bị treo cổ ở một công viên lân cận. Hàng ngàn người khác đã nhập cuộc khi tin tức vụ hành hình này lan ra như trận cháy rừng khắp thành phố. Cả đất nước Hoa Kỳ bị rúng động. Thế nhưng Thống đốc California James Rolph Jr, đã bầy tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ đám đông, ông ta đã nói với giới báo chí rằng: “Họ sẽ biết họ không thể bắt cóc trong tiểu bang này. Nếu có bất cứ ai bị bắt vì đã làm việc tốt, tôi sẽ khoan hồng cho họ.”
Vụ án Hart đã tạo một tác động mạnh đối với nạn bắc cóc. Các kẻ phạm tội không chỉ phải lo ngại bị cảnh sát truy nã, nhưng nếu bị bắt bởi các công dân bình thường, rất có thể hắn sẽ bị xét xử bởi đám đông. San Jose không phải là thành phố duy nhất mà người dân có tinh thần cảnh giác cao độ đã giành quyền kiểm soát hệ thống tòa án. Các vụ tương tự đã mau lẹ xảy ra ở Tennessee và Maryland, nơi mà hàng ngàn người đã nổi loạn chống lại Vệ binh Quốc gia để phản đối việc bắt giữ một số công dân phạm tội coi thường luật pháp khi họ “hành hình” những kẻ bắt cóc. Dần dần nạn bắt cóc đòi tiền chuộc tan biến mất. Các vụ bắt cóc riêng lẻ vẫn thỉnh thoảng xảy ra, nhưng các vụ bắt cóc từ những gia đình giầu có đòi tiền chuộc gần như không còn nữa.
Đến thập niên 1950, các động lực của nạn bắt cóc trẻ em đã thay đổi rất nhiều. Mặc dù được xem là chuyện dường như không có thật, một loại mới của sự phạm tội đã xuất hiện: bị loạn tâm thần có những ý tưởng tình dục kỳ quặc. Dĩ nhiên những kẻ phạm tội này đã luôn luôn hiện hữu trong suốt lịch sử. Trong cuối thập niên 1940, Willam Heirens, 17 tuổi, đã bắt cóc một bé gái sáu tuổi ở Chicago. Hắn đã hãm hiếp nạn nhân, cắt thân thể ra làm nhiều khúc và rồi vứt vào các đường cống của thành phố. Sau này Heirens khai rằng một cái tôi khác (alter ego) thật sự đã phạm tội ác này. Cuối cùng hắn bị kết tội và lãnh án chung thân.
Nhưng trong thập niên 1950, một loạt các vụ giết người được thúc đẩy bởi sự thèm muốn tình dục đã thu hút rất nhiều sự chú ý của giới truyền thông, và làm công chúng tin tưởng rằng một sự phạm tội mới bắt đầu nảy sinh. Bất thình lình, các sự phạm tội liên hệ đến tình dục dường như đang xuất hiện ở mọi nơi. Trong thời kỳ hậu chiến nền văn hóa Hoa Kỳ đã trải qua sự biến đổi tâm lý và xã hội rất sâu rộng. Phim ảnh Hollywood cũng đã phản ảnh sự thay đổi đó. Trong khi thập niên 1930 tràn ngập các cuốn phim như Little Caesar (1931), Public Enemy (1931) và San Quentin (1937), thập niên 1950 tạo ra các cuốn phim miêu tả mặt đen tối của sự phạm tội.
Các cuốn phim này còn được gọi là phim đen, “film noir”, và rất được nhiều người ưa thích. Tình dục không tự nhiên, sự phản bội và bị xã hội ruồng bỏ là một số chủ đề chính của loại phim đen. Sử gia phim John Belton đã viết trong American Cinema/American Culture rằng: “Sự bấp bênh của các mối quan hệ tình dục được tìm thấy trong loại phim đen là triệu chứng của một sự rối loạn lớn trong xã hội.” Phim đen mở ra cánh cửa cho các đề tài tình dục lộ liễu hơn nữa, gồm tình dục giữa trẻ em và người lớn. Cuốn phim Baby Doll (1956) đã bị nhiều người lên án vì mô tả một thiếu nữ quyến rũ tình dục. Sau trong các cuốn phim như Lolita (1962) với vai chánh là nữ tài tử tuổi thiếu niên Sue Lyons và Pretty Baby (1978) với Brooke Shields mới chỉ 13 tuổi. Hollywood tiếp tục thám hiểm chủ đề tình dục, tới mức làm choáng váng các nhà phê bình nghệ thuật.
Thế nhưng thực tế bao giờ cũng đáng sợ hơn bất cứ điều tưởng tượng nào. Trong thập niên 1980, tỷ lệ tội ác toàn nước Mỹ đã tăng tới mức kỷ lục. Các vụ bắt cóc bởi người lạ cũng đã gia tăng đôi khi hơn 200 vụ mỗi năm. Dân chúng rất có ý thức về hiện tượng bắt cóc trẻ em ở Hoa Kỳ. Các nạn nhân bắt đầu xuất hiện trong các buổi nói chuyện trên truyền hình. Họ trả lời các cuộc phỏng vấn và viết sách. Nạn bắt cóc bởi cha hoặc mẹ, thường được phớt lờ bởi nhà chức trách trong nhiều năm, giờ đây cũng được công nhận là một vấn đề xã hội.
Nhiều đạo luật đã được thông qua để thích ứng với kỹ thuật Internet ngày càng phát triển. Các chiếc máy điện toán và mạng truyền thông quốc tế đã tạo cho những kẻ bất lương điều kiện dễ dàng để gạ gẫm trẻ em. Không còn là đề tài cấm kÿ như xưa nữa, vấn đề luyến ái trẻ em giờ đây được bàn luận công khai và dân chúng Mỹ đã nhận thức được mối nguy hiểm của những kẻ chuyên rình rập trẻ em đầy rẫy trong xã hội. Tất cả những sự thay đổi này, và nhiều hơn nữa, bị quy cho là đã góp phần vào hai vụ bắt cóc trẻ em sau đây, đã làm choáng váng toàn thể đất nước Hoa Kỳ và làm khiếp sợ các bậc cha mẹ ở khắp mọi nơi.
VỤ BẮT CÓC ADAM VÀ POLLY
Adam Walsh là một bé trai sáu tuổi sống rất hạnh phúc với cha mẹ ở Florida, ông bà John và Reve Walsh. Vào ngày 27 tháng Bẩy, 1981, Adam cùng với mẹ đi mua sắm tại một khu vực thương mại ở Hollywood, Florida. Họ vào cửa tiệm Sears’s, nơi Adam rất thích la cà trong chỗ bầy bán các trò chơi điện tử. Bà Walsh tiếp tục mua sắm trong khi Adam đứng chơi “game”. Ngoại trừ vài phút, trong hầu hết thời gian bà mẹ luôn để mắt đến đứa con. Khi trở lại tìm Adam, bà không còn thấy thằng bé ở đó nữa. Bà Reve Walsh hoảng hốt hỏi mọi người chung quanh và chạy khắp cửa tiệm gọi to tên thằng con. Không ai trả lời.
Không bao lâu sau, người cha đến nơi để giúp tìm kiếm nhưng vẫn không thấy bé Adam đâu cả. Hình như trước đó vài phút, một số thiếu niên đã bị tống ra khỏi cửa tiệm vì phá phách. Người ta nghĩ có lẽ Adam đã tình cờ đi với chúng. Giả thuyết này sau đó đã được chứng minh là không đúng. Sau gần hai tiếng đồng hồ tìm kiếm khắp khu buôn bán này, cảnh sát cuối cùng đã được gọi đến.
Các tấm áp phích có hình ảnh của bé Adam đã được dán ở khắp khu vực miền nam Florida. Các đài truyền hình địa phương đã liên tục trình chiếu Adam với khuôn mặt tươi cười và đội chiếc mũ bóng chày, hy vọng một người nào đó có thể cung cấp các manh mối. Thế nhưng vẫn chẳng có bất cứ tin tức mới nào. Hai tuần lễ sau, chiếc đầu bị cắt lìa của Adam được tìm thấy trong một đường cống tại Vera Beach, cách nơi em bị bắt cóc khoảng 120 dậm. Xác chết của Adam đã chẳng bao giờ được nhìn thấy. Ông bà John và Reve Walsh đã gần như điên loạn vì quá đau khổ.
Trong năm 1983, một kẻ giết người tên là Ottis Toole đã trở thành kẻ bị tình nghi và trước đó hắn đã thú nhận giết người trong hai vụ riêng biệt. Toole sau này đã công khai bác bỏ cả hai lời thú tội này. Toole đã chết trong tù và chẳng bao giờ bị buộc tội ác này. Ông John Walsh đã nói với các phóng viên lúc đó rằng ông tin chắc hắn đã giết chết Adam.
Vào buổi tối ngày 1 tháng Mười năm 1993, cô bé Polly Klass 12 tuổi rủ hai đứa bạn gái đến nhà ngủ đêm. Hôm đó là lần đầu tiên các cô gái này ngủ chung, đùa giỡn thỏa thích với nhau. Khi Polly đi sang phòng bên cạnh để lấy thêm các chiếc gối, cô bé bất ngờ đối đầu với một người đàn ông lạ mặt cầm con dao trên tay. Hắn đe dọa giết chết các cô gái nếu không làm đúng theo những gì hắn bảo. Polly đã nói với kẻ đột nhập rằng: “Xin đừng giết chết mẹ tôi!”. Người đàn ông to lớn và nồng nặc mùi rượu này đã bắt cóc Polly đi mất. Vài phút sau các cô gái đã khóc lóc báo cho bà mẹ của Polly biết. Cảnh sát đã phản ứng rất mau lẹ và không bao lâu sau cả khu vực xuất hiện đầy cảnh sát.
Bởi vì các cô gái đã nhìn rất rõ kẻ tình nghi, cảnh sát đã có được sự miêu tả chi tiết và đã có thể ráp nối các sự kiện thật mau lẹ. Có lẽ chẳng có tấm áp phích hình nạn nhân và kẻ tình nghi bắt cóc nào đã được phổ biến rộng rãi hơn của cô bé Polly Klass. Cô bé này có mái tóc dài rất xinh đẹp, dễ thương và lúc nào cũng tươi tắn vui vẻ. Hình ảnh của Polly hiện diện khắp mọi nơi, trên truyền hình, trong các siêu thị, các trạm xăng, các khu vực thương mại, ngay cả ở hải ngoại. Cuộc tìm kiếm kéo dài nhiều tuần lễ.
Một người đàn ông tên Richard Allen Davis, 39 tuổi, một kẻ mà cả đời phạm tội ác, đã bị bắt ngày 30 tháng 11 vì tội xâm nhập vào một tài sản tư nhân trong đêm Polly bị bắt cóc. Một vài ngày sau, hắn thú nhận đã giết chết cô bé và đưa cảnh sát tới xác chết của nạn nhân. Hung thủ khai đã bóp cổ Polly vì sợ bị nhận diện, nhưng đã không hãm hiếp nạn nhân. Sau một phiên tòa xử diễn ra trong tháng Sáu 1996, Richard Allen Davis bị tìm thấy phạm tội giết người mức một và bị kết án tử hình. Ông Marc Klass, cha của bé Polly đã nói với tòa rằng: “Mỗi khi nhìn thấy một cô gái 12 tuổi xinh đẹp tôi lại nhớ đến Polly, tôi không thể ngủ, không thể tập trung làm việc. Mọi thứ đã bị hủy hoại.”
Hai vụ án Adam Walsh và Polly Klass đã làm chấn động cả nước Mỹ. Các cha mẹ ở khắp đất nước đã đau buồn xé ruột và khiếp sợ trước tính chất tàn ác của các vụ bắt cóc này. Polly đã bị bắt đi mất từ phòng ngủ ngay trong căn nhà của gia đình. Và Adam đã bị bắt trong khi đi mua sắm với mẹ tại một cửa tiệm bách hóa. Các sinh hoạt bình thường mà bất cứ đứa trẻ nào cũng thường làm. Được thúc đẩy bởi sự đau khổ cùng cực, ông John Walsh đã trở thành một người chiến đấu với tội ác không mệt mỏi và là một nhân vật rất quen thuộc trên màn ảnh truyền hình. Chương trình America’s Most Wanted của ông đã trở thành một công cụ quý giá trong cuộc chiến chống lại tội ác, và cũng đã giúp tóm cổ được hàng trăm tên tội phạm đang chạy trốn. Trong khi đó ông Marc Klass thành lập tổ chức Klass Foundation để trợ giúp các gia đình có con là nạn nhân của tội ác này.
Từ quan điểm của các nhà điều tra, bắt cóc trẻ em là một trong những trường hợp phạm tội gây nhiều xúc cảm và khó khăn nhất cho các viên chức thi hành luật pháp. Thời gian là kẻ thù hết sức tàn nhẫn. Các cuộc nghiên cứu cho thấy rằng hầu hết trẻ em (74%) bị giết chết trong các vụ bắt cóc bởi kẻ lạ mặt đều đã bị sát hại trong vài tiếng đồng hồ đầu tiên sau khi bị bắt. Do đó điều cấp bách của các nhà điều tra là tận dụng mọi phương tiện có sẵn, gồm sức mạnh đáng sợ của truyền thông. Trong năm 2003 Tổng thống George W. Bush đã ký đạo luật Amber Alerts, theo đó giới truyền thông đăng tải tin tức một cách toàn diện bất cứ khi nào một đứa trẻ bị bắt cóc. Thêm nữa, chính phủ cũng đã tài trợ để duy trì và cải tiến hệ thống báo động toàn quốc.
Riêng các cha mẹ của nạn nhân cũng đã đưa ra một số đề nghị. Chớ bao giờ để một đứa trẻ nhỏ đi chơi lang thang một mình, hoặc đi bộ một mình tới trường học. Chúng ta đã biết hầu hết các vụ bắt cóc xảy ra rất gần nhà của đứa trẻ, một số vụ không xa hơn 60 thước. Trẻ em nên được dạy bảo cẩn thận rằng không bao giờ đến gần một chiếc xe có người ngồi bên trong, hoặc nhận lời mời cho quá giang từ bất cứ ai nếu không có sự hiện diện của cha mẹ. Và khi có một tài xế hỏi phương hướng, trẻ em nên được dạy là không bao giờ nhảy vào xe để chỉ đường. Trách nhiệm của người lớn là luôn để ý bất cứ ai có hành động đáng ngờ vực trong khu xóm của họ. Và cảnh giác đặc biệt đối với những kẻ lạ mặt lảng vảng gần trường học hoặc công viên. Nếu một đứa trẻ bị bắt cóc, điều đầu tiên và quan trọng nhất là phải báo ngay cho cảnh sát. Thời gian là yếu tố tối quan trọng, cảnh sát phải được gọi ngay đến hiện trường. Càng để lâu kẻ bắt cóc có thể trốn thoát hoặc giết chết đứa bé.
Một cuộc nghiên cứu của Bộ tư pháp Hoa Kỳ trong năm 1990 đã xem xét hơn 8000 vụ trẻ em bị bắt cóc, và khám phá rằng các cha mẹ có phần nào trách nhiệm trong 57 phần trăm các trường hợp nạn nhân dưới 12 tuổi. Hơn nữa, nếu đứa trẻ được tìm thấy bị giết chết trong nhà của nó, 90 phần trăm khả năng cha hoặc mẹ dính líu đến. Điều này giải thích lý do tại sao nhiều nhà điều tra nghi ngờ ông bà Ramsey đã có làm điều gì đó trong cái chết của cô con gái JonBenet. Số liệu thống kê chứng minh rằng cha mẹ là những người bị tình nghi đầu tiên trong các vụ giết người như thế này.
Các bậc cha mẹ phải hiểu rằng cảnh sát tất nhiên ngờ vực bất cứ điều gì dường như không hợp lý, mặc dù rất nhỏ, trong một vụ án giết người. Sự ngờ vực đó càng gia tăng khi cha hoặc mẹ từ chối trả lời các câu hỏi hoặc dường như có ý muốn tránh né trong cuộc thẩm vấn. Lời khuyên tốt nhất cho các cha mẹ có con bị bắt cóc là hợp tác hoàn toàn với cảnh sát, thậm chí các câu hỏi được lập lại nhiều lần, hoặc được yêu cầu lấy tóc của đứa trẻ để thử DNA, hoặc trải qua cuộc thử nghiệm máy dò nói dối. Như chúng ta đã biết, thời gian 24 tiếng đầu tiên rất quan trọng trong một vụ bắt cóc bởi kẻ lạ, cảnh sát cần hành động thật mau lẹ và dứt khoát. Hãy nhớ mục đích chính của bất cứ cuộc điều tra bắt cóc nào cũng là mang đứa trẻ an toàn trở về với cha mẹ.