Hôm nay,  

Cô gái trong điệu nhảy loạn cuồng

21/03/202500:00:00(Xem: 2840)

Cogai&cabien

Cô Gái và Cá Biển - Tranh sơn dầu Nguyễn Trung.


Cô lớn lên như một đứa con gái tomboy, đánh gậy bóng chày giỏi hơn thằng em trai mình, có thể đá văng cặp kính ra khỏi mặt một thằng con trai, và vì thế cô không gần với mẹ lắm. Cô chẳng thấy mẹ mình có gì đáng yêu kính. Bà là người với một thân hình đẫy đà, có tật ngồi lê đôi mách, luôn tay luôn chân công việc nhà cửa, lại nợ nần cờ bạc, chẳng bao giờ thích hoạt động ngoài trời, vì quá quan tâm đến những chuyện trong gia đình nên bà chẳng hề đi đâu thăm thú thế giới, đại dương này nọ, ví dụ, bầu trời xanh chẳng có gì cho bà quan tâm, thấy thú vị.
 
Ngược lại, con bé là một cô gái nghịch ngợm hay cười và thích chơi đùa, thích thể thao, thích phim kung fu, thích đấu võ, thích được người khác thích mình, thích con trai.
 
Con bé đặc biệt thích đi chơi với Papa, ông trước đây là một trung sĩ binh chủng Thủy Quân Lục Chiến của quân đội Nam Việt Nam, một sát thủ từng được đào tạo trong chiến tranh, hoặc cái gì đó nguy hiểm tương tự, nhưng lúc đó cô còn quá bé để nhận biết một cách chắc chắn. Thực ra, điều đó không quan trọng. Đối với cô, ông là một người đàn ông hiền lành. Ông dạy cô cách móc con giun vào lưỡi câu cá, cách ném, và phải im lặng để cá đến. Cô cũng học được từ ông cách chuyển động theo nhịp điệu của đại dương, biết cảm nhận chiếc thuyền lắc lư như thế nào, biết trân trọng sự cô đơn của ông; ông già đôi khi trông giống như một bức tượng đá, có lẽ một sinh vật cổ xưa, nhưng nếu có con cá dính câu, thì ông bỗng bừng lên sống động mạnh mẽ.
 
Gầy gò, mỏng manh và nhỏ bé đến thế, ai có thể nghĩ rằng một con bé thích nghịch ngợm, liệu có trở thành một phụ nữ xinh đẹp?
 
Nhưng rồi đến năm mười sáu tuổi, cô trổ mã. Cái đẹp cứ thế nở ra từ bên trong như những đóa snapdragondaffodil. Một đóa hoa nở muộn, mọi người nói như thế, và hoa nở muộn thì chẳng bao giờ tàn phai. Thật đẹp, thật duyên dáng; mông vú nảy nở, mái tóc đen nhánh chảy dài như tơ, nụ cười rạng rỡ, và cô có sự nhanh nhẹn của một con linh dương, sự nín thở của một con bồ câu đang bay.
 
Tại một bữa tiệc ăn tối được tổ chức mừng sinh nhật lần thứ năm mươi của ông bố, tất cả những gã đàn ông có mặt cố không nhìn cô lúc cô đem đồ uống cho mọi người. “Không thể là con bé đó được!” Họ cứ kháo nhau như thế, trong lúc ông bố cả cười, “Chính là con bé nghịch ngợm của tôi chứ còn ai vào đây. Chính nó đấy.”
 
Một người trong nhóm bạn lính của bố cô, người trẻ nhất, hiện là một nhà buôn bán địa ốc thành đạt và mới ly hôn, công khai tán tỉnh cô. “Cưới anh nhé,” hắn ta bảo con bé, “em là người đẹp nhất trên đời!” “Được thôi, chú, bất cứ lúc nào chú muốn,” cô trả lời người đàn ông và ngồi lên đùi hắn theo cách cô vẫn làm từ khi còn con nít, “và cháu muốn chú mua cho cháu một lâu đài trên đồi!”
 
“Bất cứ điều gì em muốn!” hắn ta nói. “Bất cứ điều gì, công chúa của anh,” và tất cả bọn họ đều phá lên cười, nhưng cô thoáng trông thấy cặp mắt nhíu mày không vừa ý của ông bố nhắm về mình trong nửa giây. Nó là con bé tomboy bé nhỏ của tôi, ông bố lại nói với mọi người, và lẽ tất nhiên, cô trả lời ông, Papa ơi, lúc nào cũng vậy, Papa biết điều đó mà. Nhưng sau đó, khi khách khứa ra về hết, ông tát cô một cái nổ đom đóm. Mày hành động như một con điếm, ông lạnh lùng bảo cô, nhưng vang vọng trong cái tát đó cô nghe lời thì thầm của gã đàn ông bạn ông bố lúc chào từ biệt ra về – Em thật là ngon đếch chịu được! – và gần như bật cười thành tiếng.
 
Ngon đếch chịu được đến nỗi nhan sắc của con bé trở thành một lời nguyền, không còn thích hợp nữa cách cô từng sinh sống trong chính ngôi nhà của mình, cách cô đi lại trong căn nhà đông người giờ đây hoàn toàn khác hẳn; ngon đếch chịu được đến nỗi sự căng thẳng không ai nói ra ngày càng gia tăng giữa cô và các chị em gái vốn thua xa cô về nhan sắc; ngon đếch chịu được đến nỗi anh em trai phải tránh nhìn cô và không chơi đấu võ với cô nữa; ngon đếch chịu được đến nỗi mẹ cô trở nên lạnh lùng và xa cách hơn; ngon đếch chịu được đến nỗi năm mười bảy tuổi cô bỏ nhà ra đi.
 
Dù sao chăng nữa thì cũng đã đến lúc cô phải bước ra ngoài nhìn xem thế giới ra làm sao. Cô lặng lẽ đóng gói áo quần và nói lời tạm biệt với gia đình, họ phản đối, nhưng cô tự hỏi chẳng phải những người phụ nữ trong gia đình đã kín đáo lộ vẻ mừng vui khi thấy cô khăn gói ra đi đấy sao?
 
Họ khóc, và cô cũng khóc, nhưng cô đã đi. Đến trường đại học ở miền Bắc, cô gặp một người đàn ông rồi một người đàn ông khác rồi một người đàn ông khác nữa. Thực ra, đàn ông đủ mọi loại người, đủ mọi màu da và chủng tộc, đổ xô đến với cô.
 
Đàn ông mạnh mẽ, trẻ trung, gợi cảm, đẹp trai và thông minh, đàn ông tham vọng, giàu có và nghèo đói. Những người đàn ông yêu cô và cô nghĩ là cô cũng yêu lại họ. Cô có tất cả sự duyên dáng trời phú cho một người đàn bà. Lại thông minh và có trí tưởng tượng phong phú, một người thú vị và vui tính, cô còn biết nhảy cha-cha-cha, nhảy pasodoble và tango. Cô duỗi chân một cách thoải mái như con thiên nga duỗi đôi cánh trắng như tuyết, cô mỉm cười, cổ họng kêu gù gù khi người tình đi vào cô, những buổi trời mưa, một tiếng thở dài của cô cũng có thể làm nên một câu thơ – cô chẳng phải là người bạn tuyệt vời của bất kỳ gã đàn ông nào, một người vợ ngoại hạng của bất cứ thằng chó đẻ nào may mắn giành được trái tim cô đấy ư?
 
Nhưng hãy nói cho tôi biết, trái tim cô ở đâu? Thật kỳ lạ, cô chẳng bao giờ thấy gắn bó với bọn đàn ông này, luôn cảm thấy cô đơn, không hạnh phúc, chuyện làm tình, ôm nhau hôn hít chỉ là những khoảnh khắc thoáng qua, và những tên đàn ông đẹp trai, tài giỏi đầy tương lai tan biến cùng với gió hoặc bị mưa và sương mù từ những ngọn đồi vào sáng sớm cuốn trôi đi.
 
Bạn gái cô có lúc hỏi cô mọi chuyện thế nào với anh nọ anh kia thì cô chỉ khẽ thở dài và nói một cách mơ hồ, Ồ, có gì đâu, nhưng...
Nhưng không ổn chút nào. Cô chóng chán và tìm ra lỗi ở những gã đàn ông này, bởi tất nhiên họ cũng chỉ là đàn ông, tất cả đều có lỗi lầm. Bạn biết là tôi không thích hoa hồng...
 
Nhưng không phải vì lỗi lầm của những gã đàn ông mà mối quan hệ giữa cô với họ không kéo dài. Có một cái gì đó khác sâu thẳm bên trong, một cái gì đã buộc cô nhắm mắt lại hoặc rên rỉ thành tiếng, điều gì khiến cô sợ rằng chẳng mối quan hệ nào kéo dài, và chỉ một thời gian là tan vỡ y như nhau. Và thế là, từng người một, cô chia tay người đó, hoặc người đó chia tay cô.
 
“Chuyện gì thế, em yêu,” có người đàn ông hỏi cô. “Anh đã làm gì sai trái?”
 
“Chẳng có chuyện gì đâu, cưng à,” Cô thở dài, “có lẽ chỉ là thời tiết. Có lẽ chỉ vì chúng ta quá thoải mái với nhau thôi.”
 
Và chẳng bao lâu sau, trái tim người đàn ông tan vỡ: cô không muốn gặp lại anh ta nữa.
 
“Chúng ta chỉ là bạn bè,” cô nói với một người, hoặc, “Mối quan hệ của chúng ta đã sai lệch và bây giờ chúng ta là anh em,” với một người khác. Một trái tim tan vỡ. Rồi một trái tim khác nữa. Một trái nữa.
 
Nhiều đến nỗi cô quyết định xóa bỏ âm thanh những trái tim bị tan vỡ trong máy trả lời điện thoại. Cô cắt điện thoại, đem chiếc máy ghi âm thanh những trái tim tan vỡ đi cho, và cùng lúc cô dọn sạch mạng nhện và những đồ vật phế thải bừa bãi trong căn hộ của mình, ném hết bàn ghế và tất cả quần đùi, cà vạt, áo sơ mi tích tụ trong tủ quần áo từ bấy lâu. À, bây giờ thì có rồi, sự bình yên, không gian này, sự cô đơn này, sau đó cô tự nhủ, đây chính là
những điều ta ước muốn. Từ giờ trở đi, chỉ có ta và chính ta mà thôi.
 
Nhưng nỗi buồn vẫn tiếp tục. Và chẳng bao lâu, vì cô đơn, cô có một người yêu mới và kết nối lại điện thoại, và thế là những trái tim tan vỡ lại tiếp tục được ghi vào máy nghe, một số không còn nghe thấy gì nữa. Nhưng thực ra, ai đếm? Không phải cô. Cô vẫn không vui và vẫn xa cách, sương mù vẫn tiếp tục đánh giạt những buổi sáng qua căn hộ của cô, và cô cảm thấy đã muốn chạy trốn ra khỏi cuộc tình mới này, một người đàn ông Mỹ gốc châu Phi cao ráo và đẹp trai, nước da màu mật ong sáng láng, một nhân viên bảo vệ đang học để trở thành nhà làm phim, nhưng cô đã chống lại và tìm cách xa lánh, bởi vì cô biết rằng mọi thứ sẽ bắt đầu lại từ đầu và cô quá mệt mỏi.
 
Nhưng có chuyện gì với cô? Cô bị lời nguyền rủa nào sao, bị một mụ hà bá trù ẻo như thường nghe trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, để sống phần còn lại của đời mình trong vùng ánh sáng nhợt nhạt, tối tăm?
 
Cô không thể tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi này bởi vì cuộc sống cô bây giờ đã trở nên khá mờ rối, như cái cách khán giả của cô xuất hiện trước mặt khi cô múa thoát y tại một nhà hàng bán rượu cao cấp. Nhưng nếu cô chỉ cần làm việc, làm những gì cô làm tốt, nhảy nhót một chút, tán tỉnh một chút, khoe khoang một chút phần da thịt nõn nà tuyệt đẹp của mình, thì có lẽ điều gì đó khác sẽ hiện lên. Có lẽ nếu cô lại tìm đến một nơi xa xăm nào đó, có lẽ nếu cô thay đổi nơi sống của mình để có nhiều ánh sáng mặt trời hơn, hoặc nếu cô chấp thuận lời đề nghị của một gã khách hàng trẻ giàu có bay sang Paris trên chiếc máy bay phản lực riêng của gã ta, hoặc đồng ý đến Hollywood với cái lão già béo phệ ngồi trên chiếc  limousine bóng loáng và xem cách lão ta biến tưởng tượng thành hiện thực, có thể cô sẽ giải quyết một số những điều phiền muộn  bí ẩn trong tâm tư cô.
 
Có lẽ...
 
Một đêm nọ, về nhà sau khi nhảy ở nhà hàng về, cô đi tắm thật lâu, lúc bước ra khỏi bồn tắm, chiếc khăn xanh yêu thích của cô bỗng rơi từ trên tóc xuống sàn nhà. Cô cúi xuống nhặt lên. Trên chiếc khăn nhăn nhúm cô chợt thấy hiện lên một hình ảnh gì đó khiến cô cảm thấy buồn nôn vô cùng và đầu óc cô trở nên hoảng loạn, cô chạy về phòng ngủ vùi mặt vào chiếc gối lông vũ.
 
Cô bắt đầu nhìn thấy những khuôn mặt, một số người quen nhưng  một số người hoàn toàn xa lạ. Họ tụ tập quanh cô trong một căn phòng rất tối, và cô cảm thấy như thể mình đang chết đuối. Sau đó, cô nghe tiếng sóng vỗ nhẹ vào mạn thuyền. Có người đang gọi tên cô, tên tiếng Việt của cô. Cô cố tìm giọng nói đó phát xuất từ đâu giữa những khuôn mặt buồn bã trong căn phòng đầy người đó. Thoạt đầu thì rất rối loạn, nhưng dần dần, cô nhận ra người đang gọi tên cô. Đó là khuôn mặt mà cô đã biết trước khi cô trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, trước khi làm nghề múa thoát y cho đàn ông xem, trước khi học nói tiếng Anh và trước khi đến xứ Mỹ. Tất nhiên, đó là khuôn mặt của cha cô, và nó hiện ra trong mắt cô khi cô nằm ngủ chập chờn trên miếng giẻ trong thân tàu đầy ắp những người tị nạn ở giữa Thái Bình Dương, một đứa trẻ nhỏ đang chết khát. Gia đình cô ở xung quanh, không khí ẩm ướt và hôi thối không chịu nổi, vẻ lờ đờ kỳ lạ là lời nguyền rủa trong mắt mọi người. Cha cô bảo, “Dậy đi con, dậy đi, dậy uống ly sữa này trước khi chết.”
 
Cô nhớ ánh mặt trời chiếu xuống cô như thế nào và gió thổi càng lúc càng mạnh, cô nhớ lại khung cảnh cô liếc nhìn ra ngoài thấy đại dương xanh biếc và bao la như thế nào. Sau đó cô thấy người cha đỡ cô lên cho ngả đầu về phía ông, rồi cô nếm cái chất lỏng âm ấm nhơn nhớt, và cả thế giới đi vào cô cùng với những ngụm nhỏ đó. Cô ngước nhìn cha mình, chớp mắt, thậm chí cố mỉm cười, vì sâu thẳm bên trong, cô biết cô sẽ sống sót, dù chỉ là sống cho ông.
 
Và lúc này trên chiếc giường của cô, lúc này là một người đàn bà trẻ đẹp đang khóc, cô biết rằng cô đã rất sung sướng lúc đó chứ không phải bây giờ. Vì không gì có thể thay thế được cử chỉ của cha cô lúc đó; mọi thứ khác – Nước Mỹ, những người đàn ông yêu thương cô, những người quan tâm đến cô, những kẻ đã khóc, đã nhảy múa, những kẻ có trái tim vỡ tan như pha lê trong máy trả lời điện thoại, thậm chí ngôi nhà hạnh phúc mà cô đã bỏ đi, thậm chí Paris và Hollywood và xe limousine và tiền, tất cả là một ẩn dụ nghèo nàn cho những gì cô mong muốn. Điều cô khao khát là cử chỉ thoáng qua trên đại dương đó, lúc này, hơn bao giờ hết, cô cảm thấy cơn khát điên cuồng trào dâng từ sâu thẳm bên trong, một cơn khát mãnh liệt, mãnh liệt đến độ điên cuồng, thiêu đốt tất cả đến nỗi không có gì trên thế gian này, ngay cả tình yêu, có thể dập tắt được.
 
Andrew Lâm
Trịnh Y Thư dịch


* 'Cô Gái Trong Điệu Nhảy Loạn Cuồng' hay She In The Dance of Frenzy) là truyện ngắn mở đầu của cuốn sách "Stories from The Edge of The Sea" (Chuyện Bên Rìa của Biển) của nhà văn Mỹ gốc Việt Andrew Lâm, do nhà sách Red Hen Press xuất bản và phát hành vào ngày 25 tháng Ba, 2025.

“Stories from the Edge of Sea” hiện đã có mặt trên các trang mạng, độc giả mua sách có thể vào: https://redhen.org/book/stories-from-the-edge-of-the-sea/

Tác giả Andrew Lâm sẽ có mặt cùng tác phẩm “Stories from the Edge of Sea” tại hội thảo “50 Years of Storytelling: The Evolution of Vietnamese American Voices in Literature Moderator,” do Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) tổ chức vào lúc 10 giờ 30 phút sáng Chủ Nhật, 6 Tháng Tư, tại viện bảo tàng Bowers Museum, 2002 N. Main St., Santa Ana, CA 92706.  



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.