Hôm nay,  

Đầu Thu Đọc Truyện ‘Chớm Thu’ Của Nhà Văn Mỹ Louis Bromfield

24/09/202100:00:00(Xem: 3065)
 
Dau-Thu-Doc-Truyen-Chom-Thu-01
Rừng thu ngập lá vàng. (nguồn: www.pixabay.com)
Đêm thu lành lạnh –
Tôi đi ra ngoài,
Và nhìn mặt trăng hồng hào gác trên hàng giậu
Giống như một nông phu mặt đỏ…
 
Thi sĩ người Anh Thomas Ernest Hulme (1883-1917) đã viết về đêm trăng mùa thu như thế trong bài thơ “Autumn” [Mùa Thu] của ông được viết vào năm 1908. Bài thơ có cái nét nên thơ của một đêm trăng tròn mùa thu nơi miền quê thanh bình ở Việt Nam.

Nước Mỹ đã chính thức bước vào mùa thu ngày 22 tháng 9, với đêm đã bắt đầu dài thêm và bầu trời vào ban đêm và sáng sớm lành lạnh. Ở Miền Nam California dường như hiếm thấy cảnh lá vàng rực rỡ vào mùa thu nhưng ở những tiểu bang cao hơn về phía bắc thì mùa thu đã bắt đầu vẽ những bức tranh màu vàng màu đỏ tuyệt đẹp. Mùa thu có lẽ là mùa thơ mộng nhất của năm.

Mùa thu còn là nguồn cảm hứng bất tận của các nhà thơ và nhà văn. Trong văn học nước Mỹ có nhà văn Louis Bromfield đã viết cuốn tiểu thuyết “Early Autumn” [Chớm Thu] vào năm 1926 và nhờ cuốn sách này mà ông đã đoạt Giải Pulitzer Prize vào năm 1927. Nhân đầu thu xin đọc cuốn “Chớm Thu” của Bromfield. Nhưng Bromfield là ai?
 
Vài nét về Louis Bromfield

Dau-Thu-Doc-Truyen-Chom-Thu-02

Nhà văn Louis Bromfield do Carl Van Vechten chụp vào năm 1933. (nguồn: www.en.wikipedia.org)

 
Lewis Bromfield sinh ra vào ngày 27 tháng 12 năm 1896 tại Mansfield thuộc Ohio với cha là Charles Brumfield, một thư ký ngân hàng và là nhà đầu cơ bất động sản, và mẹ là Annette Marie Coulter Brumfield, con gái của một nông dân Ohio. Sau này ông đã đổi tên của mình thành Louis Bromfield bởi vì ông nghĩ nó có vẻ khá hơn, theo www.en.wikipedia.org.

Lúc còn là một cậu bé, Bromfield thích làm việc ở nông trại của ông ngoại. Vào năm 1914, ông vào Đại Học Cornell để học về nông nghiệp. Tuy nhiên, vì tình trạng tài chánh sa sút của gia đình buộc ông bỏ học chỉ sau một khóa. Nợ nần nhiều quá, cha mẹ ông phải bán căn nhà của họ ở trung tâm Mansfield và dọn tới nông trại của ông ngoại của Bromfield ngoại ô thị trấn này. Từ năm 1915 tới 1916, Bromfield đã chật vật để vực dậy nông trại gia đình không sinh lợi, một kinh nghiệm mà sau này ông đã viết một cách cay đắng trong cuốn tiểu thuyết tự truyện “The Farm.” Trong năm 1916, ông đã ghi danh vào Đại Học Columbia để học ngành báo chí, nơi ông được vào hội kín Phi Delta Theta. Thời gian học của ông ở Columbia ngắn ngủi. Ông đã rời khỏi trường sau chưa tới một năm để tình nguyện vào American Field Service trong Thế Chiến Thứ Nhất.

Bromfield đã phục vụ trong Khóa 577 của Quân Đoàn Cứu Thương của Lục Quân Hoa Kỳ và gắn liền với quân đội Pháp. Ông đã chứng kiến hoạt động quan trọng trong Cuộc Tấn Công Ludendorff và Cuộc Tấn Công 100 Ngày và đã bị bắt một thời gian ngắn bởi quân đội Đức vào mùa hè 1918.

Bromfield đã được giải ngũ vào năm 1919. Ông đã tìm việc làm tại Thành Phố New York với chức vụ ký giả, nhà phê bình và quản trị viên, trong số nhiều việc làm khác. Vào năm 1921, ông kết hôn với Mary Appleton Wood trong một lễ cưới nhỏ gần nhà của gia đình cô này tại Ipswich, Massachusetts. Họ có 3 người con gái, Ann Bromfield (1925-2001), Hope Bromfield (1927-2016) và Ellen Bromfield (1932-2019).

Vào năm 1924, Bromfield đã xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, “The Green Bay Tree,” mô tả nữ nhân vật chính cứng đầu, độc lập – một đặc tính mà đã tái diễn trong nhiều cuốn sách sau đó của ông. Cuốn tiểu thuyết thứ hai, “Possession,” được xuất bản vào năm 1925. Những nhà phê bình hàng đầu thời bấy giờ gồm Stuart Sherman, John Farrar và những người khác đã ca ngợi chất lượng của cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, theo John Farrar trong bài viết “The Fiction Reader in the New Season” được đăng trong The Bookman số 201 vào tháng 4 năm 1926.

Tháng 11 năm 1925, Bromfield sang Paris, nơi ông liên kết với nhiều nhân vật chính của phong trào Lost Generation, đặc biệt là Gertrude Stein và Ernest Hemingway. Cuốn tiểu thuyết thứ ba của ông, “Early Autumn” [Chớm Thu], một bức chân dung khắt nghiệt của bối cảnh Thanh Giáo New England của vợ ông ấy, đã thắng Giải Pulitzer năm 1927. “Trong tất cả những tiểu thuyết gia trẻ người Mỹ, ông ấy là người giỏi nhất và quan trọng nhất,” theo John Carter đã viết như thế vào năm đó trên Báo The New York Times số ra ngày 31 tháng 7 năm 1927.

Bromfield tiếp tục viết các cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất vào cuối thập niên 1920s và đầu thập niên 1930s, gồm “A Good Woman,” “The Strange Case of Miss Annie Spraag, “ và “The Farm,” một cuốn tiểu thuyết tự truyện lãng mạn hóa quá khứ làm nghề nông của gia đình ông. Ông cũng làm việc một thời gian ngắn tại Hollywood để viết kịch bản cho Samuel Goldwyn, Jr., theo Florabel Muir trong bài viết “Don't Mention Bromfield to Sam Goldwyn,” được đăng trên Báo New York Daily News vào ngày 25 tháng 1 năm 1931.

Năm 1930, ông dời tới ở tại một căn nhà cũ thuộc thế kỷ 16 được tân trang lại, Presbytère St-Etienne, tại Senlis, phía bắc của Paris. Ở đó ông tạo dựng một ngôi vườn công phu trên bờ sông River Nonette, nơi ông tổ chức các bữa tiệc của giới nghệ sĩ, nhà văn và những người có tiếng tăm trong xã hội thời bấy giờ. Những vị khách thường xuyên gồm Gertrude Stein, Alice B. Toklas, Elsa Schiaparelli, Dolly Wilde, Leslie Howard, Noël Haskins Murphy, Douglas Fairbanks, Sir Francis Cyril Rose, F. Scott và Zelda Fitzgerald.

Trong khoảng thời gian này, Bromfield cũng đã thực hiện 2 chuyến dụ lịch sang Ấn Độ. Ông đã đến thăm viện địa chất của Sir Albert Howard tại tiểu bang Indore nơi Bromfield đã khám phá ra các phương cách làm nông hữu cơ sớm sủa và ở một thời gian tại Thành Phố Baroda mà ngày nay là Vadodara làm khách của Sayajirao Gaekwad III, là Đại Vương của Baroda. Các chuyến đi của ông đã lấy thông tin cho một trong những cuốn sách bán chạy được giới phê bình đánh giá cao nhất, “The Rains Came” xuất bản vào năm 1937, mà đã được đóng thành phim nổi tiếng vào năm 1939 với các ngôi sao Myrna Loy và Tyrone Power. Sau đó ông đã dùng số tiền bán được từ cuốn sách này để tài trợ cho Malabar Farm, nói rằng “không có gì có thể thích hợp hơn là đặt tên Ấn Độ cho nông trại này bởi vì người Ấn Độ đã biến nó thành khả dĩ.”

Vào tháng 12 năm 1938, Bromfield đã mua nông trại cũ rộng 600 mẫu tây nằm gần thị trấn Lucas tại Thung Lũng Pleasant thuộc Quận Richland của Ohio. Ông đã xây một trang trại 19 phòng theo kiểu thời Phục Hưng Hy Lạp mà ông gọi là Ngôi Nhà Lớn. Sử dụng chuyên viên và lao động từ các cơ quan New Deal như Soil Conservation Service và Civilian Conservation Corps, Bromfield đã cải tạo đất của ông trong tiến trình mà ông đã học được các nguyên tắc bảo tồn đất. Sau đó ông đã biến Malabar thành nơi trưng bày cái mà ông gọi là “New Agriculture” [Nông Nghiệp Mới]. Trong các kỹ thuật làm nông mới mà ông quảng bá tại Malabar là việc sử dụng phân bón, cày theo đường viền, “canh tác rác,” trộn lá và cắt thành mảnh. Malabar thường được viếng thăm bởi những nhân vật nổi tiếng, gồm Kay Francis, Joan Fontaine, Ina Claire, Mayo Methot và James Cagney.

Sự thích thú khám phá mới trong nông nghiệp và môi trường đã đưa tới sự sụp đổ danh tiếng văn học của Bromfield. Các nhà phê bình như Malcolm Cowley, Orville Prescott và Edmund Wilson đã cho rằng tiểu thuyết sau này của ông là giả tạo và hời hợt. Tuy nhiên các cuốn sách của Bromfield đã tiếp tục phổ biến với các độc giả. Cuốn tiểu thuyết “Colorado” xuất bản năm 1947 đã bán hơn 1 triệu bản. Ông cũng bắt đầu viết một loạt hồi ký về nông nghiệp và môi trường, khởi đầu với cuốn bán chạy nhất “Pleasant Valley” xuất bản vào năm 1945.


Khi sự nghiệp văn học đứng lại, Bromfield bắt đầu gặp khó khăn tài chánh, cộng với chi phí cao của việc bảo tồn nông trại thử nghiệm và lối sống sang cả của ông. Trong số nhiều kế hoạch kinh doanh thất bại, ông cố kiếm ra tiền bằng việc tạo ra các phiên bản chi nhánh của Malabar tại Wichita Falls ở Texas và Itatiba tại Ba Tây. Sau cái chết của người vợ của ông là Mary vào năm 1952, ông bắt đầu có quan hệ với người thừa kế tỉ phú Doris Duke, là người có chung thích thú với ông trong nghề làm vườn và bảo tồn. Bromfield nói với một phóng viên báo chí vào đầu năm 1956 rằng ông và Duke “có thể làm đám cưới.”

Nhưng mối tình lãng mạn của họ đã bất thành bởi vì sức khỏe suy nhược của ông. Ông đã qua đời vì bị nhiều khối u trong tủy vào ngày 18 tháng 3 năm 1956 tại Bệnh Viện của Đại Học Columbia.
 
Đọc truyện “Chớm Thu”

Dau-Thu-Doc-Truyen-Chom-Thu-03

Hình bìa của cuốn tiểu thuyết “Chớm Thu” của nhà văn Louis Bromfield. (nguồn: www.en.wikipedia.org)

 
Cuốn tiểu thuyết “Chớm Thu” đã được nhà văn Louis Bromfield viết vào năm 1926 và đã đoạt Giải Pulitzier về bộ môn tiểu thuyến vào năm 1927.

Cuốn sách lấy bối cảnh thị trấn hư cấu Durham tại Massachusetts ngay sau Thế Chiến Thứ Nhất. Gia đình Pentland giàu có và thuộc giai cấp thượng lưu, nhưng thế giới của họ đang thay đổi nhanh chóng. Nhà thờ cổ Congregational mà gia đình Pentlands ưa thích từ lâu đã giải tán khi ngày càng có nhiều tín đồ Tin Lành Da Trắng gốc Âu Châu ra đi khỏi Durham, thay vào đó là tín đồ di dân Công Giáo La Mã với các tập quán tôn giáo khác biệt. Gia đình Pentland đã từng thống lãnh giới giai cấp thượng lưu tại Durham, và vẫn còn. Nhưng giới giai cấp thượng lưu thì đang thay đổi: Nhiều gia đình thuộc “dòng cũ” đã chết hay dời đi nơi khác, trong khi nhiều gia đình giàu có mới đã dọn vào trong vùng là những người không cùng những giá trị kiểu cũ và tuân theo các tiêu chuẩn hành vi kiểu cũ giống như gia đình Pentland.

Trưởng tộc của gia đình là ông John Pentland. Ông sống tại Gia Trang Pentland, một gia trang cất theo kiểu xưa, với người em của ông là Cassie. Cassie là một bà già kiểu cách, đạo đức, đua đòi hay để ý đến công việc của mọi người và là người kiên quyết để thấy gia đình Pentland giữ gìn “các phong cách cũ.” Người đồng hành của bà là Cô Peavey, người kém thông minh nhưng trong tất cả mặt khác lại là một người đạo đức và ngang tàng giống như bà Cô Cassie. Người con trai và thừa kế của John là Anson, đã lập gia đình với người con gái Ái Nhĩ Lan gốc Tô Cách Lan giàu có nhưng địa vị thấp kém là Olivia. Cặp vợ chồng này có một người con trai là John có biệt danh là Jack và người con gái là Sybil.

 Gia đình Pentland nói rằng họ có thể truy tìm di sản gia đình của mình từ lúc thành lập Thuộc Địa Vịnh Massachusetts, và Anson đang viết cuốn sách về gia đình. Người cháu gái của John Pentland là Sabine, không được gia đình sủng ái. Cha mẹ của cô đã chết, và căn nhà của cô đã bị mất vào tay các chủ nợ. Cô ấy được bà Cô Cassie giám hộ. Nhưng 20 năm trước, cô đã kết hôn một người đàn ông nghèo, thấp kém tên là Callender và chạy trốn với anh ấy tới Châu Âu.  John Pentland hành động như thể ông là một kẻ góa vợ, nhưng về sau này trong cuốn sách độc giả sẽ nhận ra rằng vợ của ông chưa chết. Trải qua hai, ba thập niên, vợ của Pentland là Anges đã mất trí nhớ, và hiện sống trong một phòng ở trên lầu của ngôi nhà. Bà được chăm sóc bởi một y tá, Cô Egan. Mỗi sáng, John Pentland đến thăm bà và nói chuyện với bà dù bà mất trí. Sau đó, ông đến thăm Bà Soames, một bạn lâu năm của vợ ông, và chơi bài. Sự để ý của ông tới bà góa Soames là không thích đáng như Bà Cô Cassie đã nói, nhưng không ai có thể chỉ trích công khai ông về điều đó bởi vì John Pentland là tộc trưởng của gia đình.

Cuốn tiểu thuyết này lấy bối cảnh vào đầu mùa thu. Olivia khoảng 40 tuổi, và cô ngày càng cảm thấy bị mắc kẹt và ngột ngạt bởi cuộc sống của cô. Cô và người chồng có một cuộc hôn nhân không mặn nồng, họ đã không ngủ chung phòng nhiều năm, và con trai của họ là Jack thì bịnh liên miên. Cuốn tiểu thuyết mở đầu khi con gái của Olivia là Sybil trở về nhà từ một ngôi trường ngoại quốc ở Paris. Sabine Callender và con gái của cô ấy, Therese, cũng trở về tới Durham và nghỉ mùa hè tại Gia Trang Pentland. Therese là một tiểu thư, và được “giới thiệu” với xã hội thượng lưu ở Durham. Bà Cô Cassie và Cô Peavey thường chỉ trích Sabine vì là một kẻ lăng nhăng và cô đã mang tai tiếng cho gia đình. Cùng đến Durham vào mùa thu đó là Jean, người con trai của một người đàn ông Pháp cưới vợ Mỹ và là người mà Sybil đã gặp ở Paris. Sybil đem lòng yêu Jean, và tạo ra nhiều tai tiếng vì bám riết theo chàng ấy không tha.

Một người mới đến Durham nữa là Michael O'Hara, một di dân Ái Nhĩ Lan là người giàu có và nổi tiếng về chính trị tại Boston. Ông ấy đã mua căn nhà cũ của Sabine và đang sửa sang lại. Bà Cô Cassie và Cô Peavey thật kinh ngạc bởi người mới phất lên và thường hất hủi ông ấy. Anson thì tức giận vì sự để ý của O’Hara dành cho vợ và con gái của ông. O’Hara sau đó không lâu nói với Sabine rằng ông đã yêu Olivia, và Olivia đáp lại. O’Hara nói ông muốn hy sinh mọi thứ cho tình yêu của cô. Trong khi đó, Anson Pentland thì từ chối giúp Olivia ly dị vì sợ nó sẽ phá hoại sự nghiệp của ông và tiếng tốt của gia đình.

Nhiều chuyện xảy ra liên tục: Jack chết, nhưng chỉ Olivia là có mặt ở đó để an ủi ông vào giờ phút lâm chung. Olivia khám phá ra rằng người đầy tớ của Pentland đang ngoại tình với người nào đó trong nhà, mà người đọc sẽ nhận ra đó là cô y tá, Cô Egan. Vào buổi tối lúc Jack chết, Olivia tình cờ gặp Bà Pentland, là người nói với cô rằng có một bí mật trên gác mái nhà mà không chỉ có thể phá hủy mà còn giải thoát cho cả gia đình. Cô nhanh chóng bị Cô Egan bịt miệng, và rơi vào tình trạng khó hiểu. Sybil đám cưới với Jean, và Olivia tin chắc rằng con gái của bà sẽ tìm thấy hạnh phúc mà bà chưa bao giờ có.

Nhiều bí mật đã được bật mí vào cuối cuốn tiểu thuyết, cho thấy Gia Đình Pentland là đạo đức giả. Olivia biết được rằng John Pentland yêu Bà Soames. Không biết ông ấy có làm chuyện đó với bà ấy hay không thì không rõ. Nhưng ông đã không ly dị người vợ mất trí của ông. Các chuyến thăm người vợ hàng ngày của ông không phải được làm vì tình yêu mà vì muốn chuyển hướng sự chú ý của thiên hạ khỏi tình cảm của ông với Bà Soames. Olivia tin rằng sự say mê của Bà Pentland về bí mật trên gác trần nhà không phải là điên cuồng. Không lâu bà khám phá ra một gói lá thư cho thấy rằng tổ tiên của gia đình Pentland là một đứa con hoang là người đã ăn cắp tên một gia đình quý tộc mà đã chết không lâu sau khi đến Tân Thế Giới. Bà nghi ngờ Anson biết sự thật này, và đang nói dối về gia đình trong cuốn sách của anh ấy.

John Pentland, đã đau lòng vì cái chết của đứa cháu trai của ông, thay đổi chúc thư và để tất cả tiền bạc lại cho Olivia. Ông ấy tự tử bằng cách lao ngựa xuống khe núi sâu và chết. Olivia từ chối tình yêu của Michael O’Hara, nhận ra rằng cô là người duy nhất đủ mạnh mẽ để giữ gia đình Pentland lại với nhau trong những năm thay đổi sắp tới. John Pentland đã cho cô cơ hội, qua việc cô kiểm soát tài sản của gia đình, để buộc Gia Đình Pentland thích nghi hơn là chết mất giống như quá nhiều gia đình thượng lưu khác. Bằng việc rời khỏi Michael, Olivia tin rằng cô sẽ có một lối thoát dễ dàng và làm cho chính cô nhẹ nhàng thực sự.

Cuốn tiểu thuyết “Chớm Thu” khép lại ở đó. Nhưng lại mở ra một mùa thu man mác buồn trong lòng người đọc. 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.