Hôm nay,  

Đọc ‘909 Bài Thơ Ba Dòng’ Như Vào Mật Thất Đọc Bí Kíp Thơ

17/09/202100:00:00(Xem: 2620)
909-Bai-Tho-Ba-Dong
Hình bìa tập thơ “909 Bài Thơ Ba Dòng” của Nguyễn Hưng Quốc.
 
Tôi biết đến Nguyễn Hưng Quốc như một nhà phê bình văn học kiệt xuất rất nhiều năm về trước khi tôi đọc khá nhiều tác phẩm của anh, trong đó có cuốn “Văn Học Việt Nam, Từ Điểm Nhìn H(ậu H)iện Đại,” “Nghĩ Về Thơ,” “Tìm Hiểu Về Nghệ Thuật Thơ Việt Nam,” “Văn Học Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng Sản,” “Mấy Vấn Đề Phê Bình và Lý Thuyết Văn Học,” v.v… Nhưng đây là lần đầu tiên tôi đọc thơ của anh qua cuốn “909 Bài Thơ Ba Dòng” vừa được Lotus Media xuất bản năm 2021.

Cảm nhận đầu tiên của tôi khi đọc “909 Bài Thơ Ba Dòng” là lạ, dí dỏm và sâu. Lạ vì cấu trúc và chữ nghĩa của bài thơ. Chẳng hạn trong bài thơ số 580:
 
Anh hôn em
Đến cạn cả
Giấc mơ
 
Về cấu trúc, chỉ gỏn lọn trong 3 dòng, nó thật quá cô đọng đến mức không còn có thể rút ngắn thêm được nữa, mà như Nguyễn Hưng Quốc đã viết trong Lời Nói Đầu là “nó bị nén chặt, thật chặt.” Cấu trúc này quả thật là rất lạ trong thơ Việt Nam xưa nay. Còn chữ nghĩa trong bài thơ này nữa. “Giấc mơ” trong dòng cuối của bài thơ làm người đọc không thể đoán trước, nó rất bất ngờ. Nó đúng là mở ra một khung trời khác mới lạ cho cảm nghĩ của người đọc.

Dí dỏm, vì hầu như đại đa số các bài thơ trong “909 Bài Thơ Ba Dòng” đều ẩn hiện đâu đó cái nét dí dỏm rất dễ thương và cũng rất ý vị. Thí dụ, trong bài thơ số 569.
 
Để đến với trái tim
Hắn phải trườn qua
Thân thể nàng
 
Bài thơ nói lên một sự thật ít ai chối cãi nhưng cũng ít ai nghĩ ra cách miêu tả như thế. Nó có chút phàm tục trong ý nghĩa thanh cao. Nhưng đọc xong bài thơ, tôi tin chắc hầu hết người đọc đều không thể nhịn cười.

Sâu, vì rất nhiều bài trong “909 Bài Thơ Ba Dòng” hàm ngụ một thứ triết lý nào đó về tôn giáo, lịch sử, đời sống, văn học, v.v… , như bài thơ 862.
 
Tôi thụ giáo những giọt sương
Bài học Bát Nhã
Sắc tức thị không
 
Nhìn những giọt sương, nhà thơ họ Nguyễn có thể giác ngộ được triết lý sâu thẳm “sắc tức thị không” của Bát Nhã (Tiếng Phạn đọc là Prajana – dịch âm là Bát Nhã, dịch nghĩa là Trí Tuệ), là giáo lý đức Phật dạy về trí tuệ quán chiếu bản chất mong manh giả tạm, không có tự tánh, không có tự ngã, chỉ là rỗng không của tất cả mọi sự mọi vật trên cõi đời này. Mọi thứ đều vô thường, biến hoại như sương mai, chợt có chợt không.

Đọc “909 Bài Thơ Ba Dòng” tôi lại có cảm nghĩ như mình đã tình cờ đi lọt vào một mật thất mà trong đó chứa đầy những bí quyết tinh mật về thơ, về việc làm thơ và về nhà thơ. Có lẽ, với kiến thức và kinh nghiệm phong phú về phê bình văn học và thơ mà nhà thơ họ Nguyễn đã nắm chặt trong tay mình những bí quyết, hay cũng có thể nói là những minh giải về thơ. Và khi đọc những bài thơ này tôi còn thấy phảng phất hình bóng và hơi hướng của một cây bút lý luận văn học chuyên nghiệp ẩn hiện đâu đó trong bài thơ.

Mật thất thứ nhất trong “909 Bài Thơ Ba Dòng” chứa đựng những bí quyết hay những minh giải về thơ. Xin trích ra đây một số bài thơ để độc giả tường lãm. Những con số nằm trong dấu ngoặc ở cuối mỗi bài thơ là số bài thơ trong tác phẩm “909 Bài Thơ Ba Dòng.”
 
Thơ ra đời từ
Lãnh cung
Của những đóa hoa hồng (2)
 
Bài thơ không có gì ngoài chữ
Chữ giao cấu với chữ
Đẻ ra nhà thơ (54)
 
Ánh trăng đâm thẳng vào trái tim của hắn
Hắn mất tân
Và bài thơ tình ra đời (73)
 
Tất cả mọi người đều là những tù nhân
Thơ là sự cứu rỗi
Cuối cùng (82)
 
Thơ là lời thì thầm của trái tim
Thơ là trò chơi của chữ
Thơ là ngón tay đeo nhẫn của Chúa (98)
 
Thơ trở thành nguồn cứu rỗi duy nhất
Sau khi Thượng Đế bị
Truất phế (109)
 
Thơ là nơi tôi chôn giấu những nỗi
Không thể nói được
Với bất cứ ai (123)
 
Trong những điều kỳ diệu, ngôn ngữ đứng đầu
Trong ngôn ngữ
Thơ đứng đầu (166)
 
Một bài thơ như tiếng chó sủa vu vơ dưới trăng
Nó khiến người ta giật mình
Thấy ánh trăng đẹp (167)
 
Thơ làm mới ngôn ngữ
Ngôn ngữ làm mới cái nhìn
Cái nhìn làm mới con người (70)
 
Thơ chỉ là cô điếm già
Đứng ngắm trăng
Trong lúc chờ khách (187)
 
Bài thơ nào cũng đến bất ngờ
Khi tia nắng chạm vào ngay giữa
Trái tim hoa (205)
 
Hắn mất tích trong các bài thơ của hắn
Mọi tìm kiếm đều
Vô vọng (208)
 
Mỗi bài thơ là một đám cưới của chữ
Phần lớn đều
Tuyệt tự (213)
 
Trong khế ước của thơ
Sự thành thực chỉ là điều
Phù phiếm (214)
 
Hễ còn nỗi buồn còn nhớ nhung còn tuyệt vọng
Là còn có thơ
Thơ là tiếng kêu của sự bất toàn (216)
 
Thơ là những nụ hôn
Kín đáo
Xuyên địa lý (231)
 
Không ai ngăn được thời gian
Nhưng thơ có thể vĩnh cửu hóa
Một khoảnh khắc (264)
 
Thơ
Bí tích hôn phối
Giữa các chữ (324)
 
Thơ: Những chữ bị đánh cắp
Bởi một giấc mơ
Thủng đáy (331)
 
Thơ là tiếng thì thầm
Của những giọt sương mai
Chưa mất trinh (332)
 
Thơ là những đóa hoa
Trễ kinh
Đứng khóc (347)
 
Mỗi bài thơ là một thương tích
Từ vết cắn
Của chữ (360)
 
Thơ khuếch tán
Tiếng thở dài của những
Hạt sương đêm (407)
 
Thơ là lời tỏ tình của
Ngọn cỏ
Với một ánh sao xa (411)
 
Thơ: Lơ lửng giữa nói và không nói
Giữa từ vựng và phi từ vựng
Giữa thơ và phản thơ (530)
 
Bài thơ cởi truồng
Chữ giạng chân
Mà tất cả vẫn ẩn mật (535)
 
Mỗi bài thơ cõng một tia nắng
Chiếu sáng
Đường đi vào những giấc mộng (578)
 
Thơ chỉ thích những góc khuất thật quạnh quẽ
Nơi người ta nghe được
Tiếng cựa mình của chữ (689)
 
Thơ là những đóa hoa bị đẻ rơi
Trên đường lên
Núi Sọ (709)
 
Khi những họng núi lửa nở hoa
Và dòng sông gục đầu xuống khóc
Thơ ra đời (728)
 
Lửng lơ, tất cả các bài thơ hắn viết
Đều theo
Thi pháp của mây (786)
 
Thơ như một hạt bụi
Đậu trong mắt
Đủ làm người xốn xang (807)
 
Mỗi bài thơ là một thí nghiệm
Trên chữ
Về cái gọi là thơ (833)
 
Thơ không phản ánh sự thật
Nó tạo ra
Sự Thật (865)
 
Những bài thơ được viết
Để phụ họa
Các lời kinh của mưa (877)
 
Bài thơ cần kịch tính
Của ngọn núi lửa
Nổ bùng (883)
 
Thơ gắn liền với ý niệm phôi pha
Trong cõi vĩnh hằng
Không có thi sĩ (889)
 
Tất cả những bài thơ trên đều giúp cho người đọc hiểu thơ là gì, thơ nói về điều gì và chất liệu làm nên bài thơ. Tôi có cảm nghĩ nó giống như những khẩu quyết mà người học võ phải thuộc lòng để nắm bắt được cốt tủy thi triển của một đường võ.

Mật thất thứ hai ghi những bí quyết về việc làm thơ. Những bài thơ được trích dẫn dưới đây từ cuốn “909 Bài Thơ Ba Dòng,” là những bí quyết mà nhà thơ Nguyễn Hưng Quốc nói cho chúng ta biết kinh nghiệm làm thơ của anh. Kinh nghiệm thì thường khác biệt giữa người này và người nọ do tư chất riêng và do bối cảnh tâm tư, tình cảm, nhận thức, hoàn cảnh, v.v… của mỗi người. Nhưng đây là điều hiếm thấy được các nhà thơ trình bày theo thể cách này. Xin trích một số bài thơ trong “909 Bài Thơ Ba Dòng” để người đọc tiện việc theo dõi.
 
Làm thơ là đánh vật với chữ
Khi chữ thắng
Tác giả cũng thắng (181)
 
Làm thơ, hắn tìm cách phiên dịch
Những bài kinh nhật tụng
Của gió (204)
 
Để bày tỏ tình yêu
Hắn làm thơ
Còn nàng thì mất trinh (233)
 
Làm thơ
Tôi tự hóa kiếp tôi
Thành chữ (286)
 
Làm thơ như đột kích
Mỗi chữ một phát súng
Bất ngờ (414)
 
Làm thơ là một cách thủ dâm
Tinh khí chữ bắn vào
Hiu quạnh (592)
 
Thử thách lớn nhất của người làm thơ là
Nghe được tiếng chữ thở
Lúc chúng tự sướng (635)
 
Làm thơ là tự hành xác với chữ
Bao nhiêu tinh dịch trào xuống
Để có được một cành hoa (647)
 
Làm thơ là phóng thích những nỗi u uẩn
Để lòng được nằm nghiêng với
Những vạt nắng chiều (708)
 
Làm thơ, hắn nhập thể vào chữ
Chữ thở phập phồng
Những tình yêu của hắn (758)
 
Làm thơ là tìm kiếm tàn tích
Những nụ hôn cháy
Trong giấc mơ (882)
 
Làm thơ, hắn ăn cắp chữ
Từ những giọt
Mưa rơi (905)
 
Làm thơ, theo Nguyễn Hưng Quốc, là “hóa kiếp tôi thành chữ,” hay “hắn nhập thể vào chữ,” hoặc một cách đầy tượng hình “hắn ăn cắp chữ từ những giọt mưa rơi,” v.v… Nhưng tôi thích nhất là câu này: “làm thơ là nghe được tiếng chữ thở lúc chúng tự sướng.” Muốn nghe được “tiếng chữ thở” thì mình ắt phải “hóa kiếp thành chữ,” hay “nhập thể vào chữ.” Và như thế thì không còn khoảng cách giữa người làm thơ và chữ. Người làm thơ là chữ và chữ là thơ.
Mật thất thứ ba viết những bí quyết về nhà thơ. Trong mật thất này chỉ gồm mấy bài thơ, là ít so với hai mật thất mà tôi vừa đi qua ở trên. Xin trích đăng để độc giả thưởng thức.
 
Nhà thơ không làm ra chữ
Chính chữ làm nên
Nhà thơ (139)
 
Nhà thơ là kẻ phiên dịch bóng tối
Để ánh sáng hiểu được
Trái tim đêm (175)
 
Tất cả các nhà thơ đều nhẹ dạ
Trước sự cám dỗ của
Những nỗi vu vơ (261)
 
Nhà thơ lắng nghe và phiên dịch
Các cuộc chuyện trò giữa
Cỏ và sương (426)
 
Bao giờ hắn cũng muốn viết một cái gì đó
Nhưng chỉ khi hắn không viết
Hắn mới thực sự là nhà thơ (649)
 
Chỉ có các nhà thơ mới dịch được
Các văn bản của mây
Viết trên trời xanh (727)
 
Nguyễn Hưng Quốc cho rằng “Nhà thơ không làm ra chữ, chính chữ làm nên nhà thơ.” Vế thứ hai của bài thơ này thì có vẻ dễ hiểu, bởi vì chính người làm ra bài thơ thì mới được gọi là nhà thơ. Nhưng vế đầu của bài thơ thì không dễ hiểu tí nào cả, bởi vì “nhà thơ không làm ra chữ,” thì nhà thơ làm ra gì? Có lẽ chúng ta nên quay lại mật thất thứ hai trong đó ghi những bí quyết làm thơ thì chắc có câu trả lời. Đúng vậy, trong mật thất thứ hai, Nguyễn Hưng Quốc nói anh “hóa kiếp thành chữ,”“nhập thể vào chữ.” Bởi thế, nhà thơ không còn đứng ngoài chữ để nói mình làm ra chữ. Nhà thơ là chữ. Chữ là nhà thơ. Và do vậy, nhà thơ họ Nguyễn mới nói “Bao giờ hắn cũng muốn viết một cái gì đó, nhưng chỉ khi hắn không viết, hắn mới thực là nhà thơ.”(649) Cao siêu! Đây quả là cảnh giới thượng thừa của nghệ thuật.

Nguyen Hung Quoc

GS Nguyễn Hưng Quốc. (ảnh của Uyên Nguyên – nguồn: https://uyennguyen.net


Trong “909 Bài Thơ Ba Dòng” có nhiều điều khác mà Nguyễn Hưng Quốc cảm tác về tình yêu, chuyện vợ chồng, biển, sóng nước, mây, gió, trăng, mưa, mùa thu, lá vàng, nắng, hoa, sương đêm, các vì sao, giấc mộng, tiếng chim hót, v.v…

Có những bài thơ trong “909 Bài Thơ Ba Dòng” đọc lên là nghe và thấy cả một khung cảnh nghệ thuật như đang xem một bức tranh thiên nhiên sống động tuyệt đẹp. Chẳng hạn:
 
Hắn nhả khói thuốc vào mùa thu
Bầu trời trống
Treo hờ một khóe trăng non (878)
 
Hoặc có bài thơ chứa đầy âm thanh, màu sắc và hương vị:
 
Mở cửa cho tiếng chim vào nhà
Tiếng chim tròn và ngọt lịm
Như một trái cam (818)
 
Nhà thơ Nguyễn Hưng Quốc khép lại tập thơ “909 Bài Thơ Ba Dòng” bằng một câu hỏi bỏ ngõ nhưng chứa đựng cả một khung trời triết lý nghệ thuật cao siêu:
 
Những bài thơ ba dòng nhỏ xíu này
Có nặng bằng một hạt sương không?
Tôi không biết. Xin hỏi những ngọn cỏ (909)
 
Chỉ những ngọn cỏ mới cảm nhận được đích thật hạt sương có nặng không thôi. Nếu dùng tâm thức phân biệt, hay nói như Trần Na (Dignāga) trong Nhân Minh Luận của nhà Phật là dùng loại tri thức tỉ lượng, để suy đoán thì sẽ rơi vào tình trạng “người mù rờ voi,” -- là một thí dụ mà các nhà hiền triết Ấn Độ thuở xưa nêu ra để miêu tả sự suy đoán chân lý tuyệt đối bằng đầu óc hữu hạn và tương đối của con người. Nhưng những ngọn cỏ thì có bao giờ lên tiếng trả lời đâu và ngay cả hạt sương cũng vậy.

Vì thế, muốn có câu trả lời thì phải là hạt sương, phải là ngọn cỏ, hay phải “thể nhập,” phải “hóa kiếp” để lắng nghe cỏ và sương nói gì, như nhà thơ họ Nguyễn đã nói đâu đó trong tập thơ này.
 
Nhà thơ lắng nghe và phiên dịch
Các cuộc chuyện trò giữa
Cỏ và sương (426)
 
Cảm ơn nhà thơ Nguyễn Hưng Quốc và xin giới thiệu tập thơ “909 Bài Thơ Ba Dòng” đến với quý độc giả.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nguyễn Hữu Liêm là một người đa dạng, không chỉ trong nghề nghiệp mưu sinh, mà cả trong những lĩnh vực cầm bút, lý luận. Ông là một người gây tranh cãi trong những nhận định về cộng đồng, và cả trong những bài viết về rất nhiều đề tài, như văn hoa, triết học, tôn giáo, chính trị. Dĩ nhiên, sôi nổi nhất là lĩnh vực chính trị. Nguyễn Hữu Liêm mưu sinh với nghề Luật sư, giảng dạy Triết. Những bài viết của ông bất kể gây tranh luận thế nào trong cộng đồng, vẫn là những đề tài cần được cộng đồng suy nghĩ nghiêm túc. Do vậy, từ một bàn viết lặng lẽ ở San Jose, Nguyễn Hữu Liêm trở thành người khơi dậy những cuộc tranh luận không chỉ ở hải ngoại, mà còn cả trong Việt Nam.
Đặng Thơ Thơ cùng thế hệ với ông bác, em ruột mẹ tôi, sống trong thời Việt Nam Cộng hòa và cũng như ông bác tôi, Thơ Thơ xa xứ cùng gia đình, người bác theo ngành y còn chị ngành giáo dục, viết văn, sáng lập trang Da Màu như cách để giữ gìn bản sắc và ngôn ngữ Việt. Xa quê mới nhớ nhà, rời nhau mới ngẩn ngơ căn nhà cắt rốn, sợ mất tiếng mất giọng, ngôn ngữ bay tro nên việc người Việt tha hương lập ra các trang Văn Hải Ngoại là cách đại đoàn kết khỏi cảnh nhớ nhà, đồng thời đấy cũng là sân chơi, thư viện lưu trữ bản thảo, để người trẻ muốn tìm tòi giai đoạn 20 năm miền Nam, muốn thử sức mà không cần phải trình bày thành tích đăng báo, in sách chung sách riêng đều có thể liên lạc.
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
Cuốn tiểu thuyết “Đường về thủy phủ” của nhà văn Trịnh Y Thư là một tác phẩm ám ảnh và đầy trăn trở, khiến tôi phải đọc đi đọc lại và phải suy ngẫm nhiều lần. Vì sao? Vì mỗi khi khép sách lại, tôi luôn có cảm tưởng dường như mình đã bỏ sót một điều gì đó…
Tôi sẽ nói gì về Phiến Hạ khi mùa hè chưa tới? Khi biển đã rộn ràng khơi nồng trong gió? Tôi có thể gợi khêu gọi nắng lên nhân quần khi lạnh gây vẫn u ẩn không gian? Có lẽ tôi sẽ mơ một khắc giây hội tụ, khát vọng liền tâm. Những mối dây xoắn gút cột thắt linh hồn. Ôi tôi mong bức đứt, chặt phăng mắt xích trói ghì...
Viết cho thế hệ trẻ là quan tâm lớn của nhiều nhà văn gốc Việt. Và mới trong tháng qua, nhà văn Trần Ngọc Ánh vừa ấn hành 2 bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp của tập hồi ký “Ba, Con Không Muốn Là Người Cộng Sản.” Bản dịch sang tiếng Anh do dịch giả Kim Vũ từ California thực hiện, nhan đề “Daddy, I don't Want to be a Communist.” Bản dịch sang tiếng Pháp do dịch giả Bảo Hưng từ Paris thực hiện, nhan đề “Papa, Je ne voudrais pas être communiste.” Cả hai bản dịch này ấn hành chung trong cuốn sách dày 184 trang. Bìa sách thực hiện bởi hai họa sĩ: Trần Nho Bụi và Phan Trường Ân. Một số tranh trong sách là từ họa sĩ Nguyễn Tư.
Có những cách để tưởng niệm 50 năm ngày Miền Nam tự do sụp đổ. Trong khi những cuộc hội thảo, chiếu phim, nhạc hội... do cộng đồng tổ chức sôi nổi khắp những tuần lễ trong tháng 4/2025, nhà văn Phan Nhật Nam và dịch giả Kim Vu có một cách lặng lẽ hơn: Dịch giả Kim Vu trong tháng Tư 2025 đã ấn hành tác phẩm tiếng Anh “The Sound Of A Suffering Land” – tuyển tập bản dịch 8 truyện của nhà văn Phan Nhật Nam.
Thơ mộng, uyên bác, thấu suốt Phật lý... Những dòng thơ của Thầy Tuệ Sỹ hiện lên trang giấy như các dãy núi nơi những đỉnh cao ẩn hiện mơ hồ giữa các vầng mây. Do vậy, dịch thơ Thầy Tuệ Sỹ qua tiếng Anh cũng là một công trình lớn, khi phải cân nhắc từng chữ một để giữ được cái thơ mộng, cái uyên bác, và cái nhìn thấu suốt ba cõi sáu đường của một nhà sư thiên tài, độc đáo của dân tộc. Hai dịch giả Terry Lee và Phe X. Bạch đã làm được phần rất lớn trong việc giới thiệu thơ của Thầy Tuệ Sỹ cho các độc giả trong thế giới Anh ngữ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.