Hôm nay,  

Một Người Viết Nữ Ngoài Vòng Đai: Nhà văn Nguyễn Thị Thanh Sâm

10/09/202109:08:00(Xem: 2905)

 

 

 

Thanh Sam 1

(Thanh Sâm, vẽ theo trí nhớ - Đinh Cường)

 

 

Nếu phân biệt về giới tính, số lượng và tác phẩm của những người viết “Nam” ngoài vòng đai trong Văn chương miền Nam thời chiến (1954-1975) có khá nhiều: Y Uyên, Lê Bá Lăng, Doãn Dân, Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Luân Hoán, Vũ Hữu Định, Phan Xuân Sinh, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương... Hầu như không có một người “Nữ” nào viết ngoài vòng đai cả. Có thật vậy không?

 

Phải đợi đến tháng 10/2011, nghĩa là sau 40 năm từ khi sách được phát hành vào tháng 9/1971, khi trang blog Phay Van với cô chủ thật “đặc biệt” và nhóm bạn yêu thích văn chương mà tôi đã ghi lại trong “Hành trình của Cõi Đá Vàng” [1], thì tôi mới biết đến tên nhà văn Nguyễn Thị Thanh Sâm. Trước năm 1975, trong chúng ta hầu như không mấy ai nghe nói tới tác phẩm “Cõi Đá Vàng” của bà, dù cho cuốn sách ấy được nhà An Tiêm, một trong những tên tuổi của miền Nam thời bấy giờ, xuất bản. Cuốn sách ra đời, rất im hơi lặng tiếng, không được một lời giới thiệu hoặc ca ngợi bởi những ngòi bút phê bình điểm sách ở thủ đô Sài Gòn thời bấy giờ. Cũng là một điều rất đáng ngạc nhiên khi biết rằng tác giả đã khá thân thiết với một số bạn trong giới văn nghệ thời ấy.

 

Thanh Sam 2

Cõi Đá Vàng được Thư Ấn Quán tái bản năm 2012 với tranh bìa của họa sĩ Đinh Cường và Thư Quán Bản Thảo số 51 – tháng 4/2012 giới thiệu tác phẩm Cõi Đá Vàng & thơ của tác giả Nguyễn Thị Thanh Sâm

 

Đã chín năm từ khi Thư Ấn Quán tái bản cuốn sách này. Bao nhiêu nước chảy đã qua cầu. Họa sĩ Đinh Cường, người vẽ bìa lại cho lần tái bản, và chị Kim Nhung, em gái tác giả cũng là người thay mặt gia đình đồng ý cho Thư Ấn Quán tái bản nay đã đi thật xa. Cả tuần nay đọc lại tác phẩm để thưởng thức cũng là khi tôi nhận ra một thiệt thòi rất lớn. Giả sử ngày ấy, ngay sau khi tác phẩm ra đời tháng 9/1971, nó được những cơ quan truyền thông giới thiệu rộng rãi và được mọi tầng lớp độc giả đón nhận nồng nhiệt... biết đâu tình thế đã khác... Một cuốn sách rất mực văn chương nhưng đã nói đến những sự thật của chế độ Cộng sản mà tác giả là một thiếu nữ, như bao nhiêu thanh niên thời ấy, khi thấy quê hương Việt Nam bị dẫm nát dưới gót giày xâm lăng của người Pháp đã lên đường đi theo kháng chiến mong ngày giải phóng quê hương khỏi ách thực dân, mang lại thanh bình cho xứ sở. Vâng, bà đã tham gia, đã hiểu và thấy hết tất cả Sự Thật. Và đã viết lại.

 

Dù ngay đầu tác phẩm bà đã ghi lời đề tặng:

 

Dâng Tốn tác-phẩm đầu tiên của Sâm.

Cuộc đời này không dung những kẻ thương yêu nhau.

Em đã tìm thấy Anh trong Cõi Đá Vàng.

THANH SÂM

 

Nhưng ông Tốn, Phan Văn Tốn - phu quân của bà, nguyên là Quận trưởng quận Khiêm Đức, Phó Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đức, sau đổi qua làm Chỉ huy trưởng bộ Chỉ huy Quân sự Đà Lạt, kiêm Quân Trấn Trưởng, kiêm Phó Tỉnh Trưởng Nội An Đà Lạt. Trung Tá sau được vinh thăng Đại Tá, đã tử vong vì một quả mìn khi đi thanh tra đồn Kim Thạch của tiểu khu Tuyên Đức [2]; cũng là nhân vật Phan trong truyện chỉ được nhắc đến thoáng qua ở vài trang cuối của chương thứ 25 như “một người bạn học cùng trường ở Hương Khê ngày nàng còn học ở Liên khu Tư”. Sau này có dịp đọc bài viết “Nhà xưa có hoa mimosa vàng” của Bác sĩ/ Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng (hiện đang sinh sống và làm việc ở Canada), tôi được biết thêm về thân sinh của ông Phan Văn Tốn (cũng là cậu ruột của nhà thơ này), “gia cảnh nghèo, sinh bất phùng thời chữ Hán không được dùng, trở thành nông dân bất đắc dĩ, nhà lại đông con”, được một người dì ở Huế “cho không một con bò để cày cấy và làm phương tiện sinh sống. Khi cậu tôi cầm sợi dây thừng dài dẫn con bò từ phố qua đò Thạch Hãn về làng, cũng là lúc bản án dành cho cậu được viết xong. Bọn du kích bắt cậu lên rú tra khảo. Đến ngày thứ ba, cậu không chịu nổi nữa, đành ký giấy tình nguyện hiến con bò cho kháng chiến, với điều kiện cho phép em gái của cậu, tức mẹ tôi, và đứa con gái đầu lòng của cậu, chị Sim, chị của anh Tốn, được lên thăm. Chúng cho phép.

Khi em và con đến, cậu tôi bí mật dặn họ: phải về mau, vì là con gái, chúng chưa có ý định thủ tiêu, đem hết cả nhà tản cư về tỉnh, đêm nay hay đêm mai thôi chúng sẽ giết anh, giết cha. Chúng đánh gãy hết các xương sườn của ông, nên ông biết bản án tử hình đã được ký. Tối hôm đó bọn du kích gọi cậu tôi đi thẩm vấn như thường lệ. Chị Sim khóc lóc nhứt quyết đòi đi theo. Chúng cho chị đi. Người cha bị dẫn sâu vào truông cát, sau cánh đồng bắp bạt ngàn, ven khúc sông uốn cong về thị xã, khủy tay trói ngoặt lại. Đứa con gái lẽo đẽo theo sau. Chúng bất ngờ dùng báng súng đánh vào đầu cậu tôi đến vọt óc ra, trước cặp mắt kinh hoàng của chị Sim. Rồi đào hố lấp xuống. Đứa con gái khóc thét, lăn xả vào ôm lấy cha. Thuận tay, chúng lấp huyệt chôn sống luôn chị Sim trên đồi cát. Mẹ tôi tất tưởi chạy về nhà mang theo lời dặn của anh trai. Từ đó vang vọng mãi trong con cháu gia tộc lời dặn: phải chạy cho xa. Anh Tốn lúc ấy là cán bộ đại đội của Việt Minh, nghe tin cha bị giết, bỏ ngũ về thành.[3] 

 

Trở lại cuốn tiểu thuyết Cõi Đá Vàng, trọng tâm xoáy vào hai nhân vật Trần và Huỳnh, hai người bạn thân và cũng là hai thanh niên yêu nước, sống có lý tưởng, yêu văn chương, tâm hồn nghệ sĩ lãng mạn, đi theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp, nhưng gia đình thuộc thành phần tiểu tư sản. Trần là chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Quân Đội Nhân Dân, đảng viên đảng Cộng sản; còn Huỳnh chỉ là một quần chúng.

 

Mở đầu cuốn sách, ở chương 2, tác giả đã cho thấy một trong những tính cách của người Cộng sản là “thà giết lầm còn hơn bỏ sót”, với việc một cô gái trẻ ở thành phố Huế có chồng là một sĩ quan người Pháp, trở về làng thăm nhà và giỗ mẹ đã bị gán ghép cho tội Việt gian làm gián điệp cho Pháp nên công an Việt Minh “quyết định mang ra xử bắn cho rảnh, kẻo lỡ có máy bay bắn, mụ thoát được lại chỉ điểm cơ sở mình cho giặc thì khốn.”  Tác giả cũng cho biết thêm “những thù oán, tỵ hiềm riêng tư cũng dựa vào đó để thanh toán nhau nhân buổi loạn ly này.”

 

Trần đã mục kích cảnh xử tử hình cô gái đó. Chàng cảm thấy bất nhẫn khi người ta đã dùng ba mũi tên tẩm thuốc độc để thử nghiệm trên thân thể người. Và đã lên tiếng: “Người ta không thể dùng con người để thí nghiệm phản ứng của những mũi tên tẩm độc mà người thiểu số chỉ dùng để bắn thú dữ trong trường hợp tự vệ. Giết một con người không thể xem như giết một con thú hoang, chúng ta đã tự hào là những kẻ tiền phong, có phải thế không, vậy các đồng chí nghĩ sao về hành động phi nhân này?”. Từ đây chàng bị “thất sủng”, bị cho là đầu óc còn nặng chất tiểu tư sản, chưa có được “nỗi căm hờn cao độ của một chiến sĩ yêu nước đối với kẻ thù” nên phải đến phân khu để dự lớp chỉnh huấn. Trở về, Trần ngã bệnh nặng, được chị Hiếu, một thiếu phụ góa chồng có hai con, hơn chàng mười tuổi, hết lòng chăm sóc. Tình yêu bắt đầu nẩy sinh từ đó. Trần muốn cưới Hiếu, nhưng Hiếu là người ngoài Đảng nên Đảng không chấp nhận, cùng lúc Trần nhận thấy mình không thích hợp với đường lối cai trị sắt máu nên làm đơn xin ra khỏi Đảng. Do đó chàng bị đưa đến Trung tâm Cải hối Tây Hạ. Nơi đây Trần gặp lại Huỳnh, người bạn văn chương thân thiết, đã bị bắt trước đó và bị tra tấn dã man vì đã “đệ trình bản điều trần về chính sách cải cách ruộng đất lên cơ quan hữu quyền xin chuyển về cấp lãnh đạo trung ương.” Huỳnh bị khép vào tội phản động do công khai chống lại đường lối của Đảng, cộng thêm những bài thơ gây xáo trộn tinh thần trong hàng ngũ bộ đội kháng chiến. Theo Huỳnh, “... cải cách ruộng đất được đề ra trong giai đoạn này sẽ không tránh khỏi làm cho nhân tâm phân tán, tài sản của dân sẽ bị lụn bại trong cơn khủng hoảng của sự thay cũ đổi mới. Song song với cảnh tàn phá chết chóc của chiến tranh, cảnh đấu tố tiêu diệt giai cấp sẽ xảy ra và chúng ta phải mang thêm gánh nặng xương máu của cuộc đấu tranh tương tàn nồi da xáo thịt sẽ còn khủng khiếp gấp ngàn lần tai họa chiến tranh. Sự diệt vong có thể thấy trước mắt vì đó. Một khi nhân tâm đã bị phân tán chia rẽ bởi giai cấp này giai cấp nọ tiêu diệt lẫn nhau, tình trạng đó gieo rắc khắp nơi sự nghi kỵ vu khống, thù ghét, oán hận do đó sự nhất tâm chống giặc cứu nước sẽ bị tan rã mau chóng.”

 

Tác giả cũng đề cập tới việc “vắt chanh bỏ vỏ” của người Cộng sản. “Trong những thời kỳ kháng chiến còn trong vòng bí mật, người ta dành những tình cảm giống nhau đối với người Quốc Dân Đảng cũng như người Cộng sản, ... người ta yêu mến và tôn sùng tất cả những ai xả thân cho Tổ quốc.

Nhưng ... khi chính quyền kháng chiến đã có cơ sở ở khắp mọi nơi, khi bộ đội Vệ Quốc đoàn đã lớn mạnh, đã đủ sức mở những chiến dịch làm cho địch quân kinh hồn bạt vía, khi mà mọi người đều có thể thấy ngày chiến thắng không còn bao xa nữa, thì trong đời sống kháng chiến đã phân chia rõ rệt hai giai cấp, giai cấp đảng viên thống trị và giai cấp quần chúng bị trị...

Do đó, họ xiết bao kinh ngạc và cảm thấy bị hụt hẫng khi thấy chính quyền kháng chiến do người Cộng sản lãnh đạo có thái độ lãnh đạm loại bỏ hay hững hờ với sự cộng tác nhiệt thành của lớp người bị họ phân loại là thành phần tiểu tư sản, địa chủ hoặc phú nông, đó là lớp người đông đảo đã góp khả năng đáng kể về tinh thần lẫn vật chất để đưa cuộc kháng chiến đến mức trưởng thành như ngày nay.”

 

Đến giai đoạn này thì Trung tâm Cải hối Tây Hạ đã giam giữ rất nhiều những người yêu nước, hoặc có hành động chống lại với chủ trương sắt máu của Đảng hoặc thuộc thành phần tiểu tư sản bị nghi ngờ là có quan hệ với “địch” như Lương, như Bằng...

 

Bằng từng hoạt động bí mật trong nội thành, từng bị mật thám Tây bắt, sau này bị liệt vào thành phần tiểu tư sản không cho đánh Tây nữa nên lui về quê nhà thì bị bắt lại đem bỏ tù, bị chính những người từng là “đồng chí” của mình lấy chày giã gạo giã vào ngực. Bằng tuyên bố một câu “xanh rờn” đến rợn cả tóc gáy, “so sánh thì tụi mật thám Pháp chúng nó còn nhân đạo hơn người kháng chiến đối xử với nhau như thế này nhiều.”

 

Lương đã có vợ và hai con, là người trí thức, đã đậu tú tài nhưng cam phận sống nơi miền quê, làm một thầy giáo làng, không bận tâm đến chính trị. Vì đứa con của Lương bị bệnh nặng, ở miền quê không đủ phương tiện chữa trị, lại thêm tình trạng chiến tranh, giặc bắn phá giết hại, nên Lương bàn với vợ tạm mang hai con về Huế ở với cha mẹ khoảng 3 tháng sau sẽ trở lại. Một mình, buồn và cô đơn, thỉnh thoảng Lương “lang thang ra bờ sông, xuống bến đò nhìn chỗ vợ con ra đi mấy tháng trước cho đỡ nhớ”, nhất là sau thời hạn ước hẹn 3 tháng chưa thấy vợ con quay lại. Sáng sớm mồng một Tết, Lương cũng ra bến đò, thì thấy tàu địch xuất hiện từ xa nên chàng phải lo chạy giặc. Chuyện chỉ có vậy, nhưng chàng bị nghi ngờ làm gián điệp chỉ điểm cho Pháp vào làng để càn quét, giết hại đồng bào. Do đó, Lương bị bắt nhốt vào trại Cải hối Tây Hạ, mang tội Việt gian và bị tuyên án tử hình.

 

Nhưng người Cộng sản gian manh, chuyên nghề ném đá giấu tay. Sau khi nghe đọc án tử hình, người ta cho Lương ký vào lá đơn xin Chủ tịch ân xá, tưởng như một hành động rất nhân từ. Đêm hôm đó, họ để ngỏ cửa phòng giam, với ý đồ tạo cơ hội cho phạm nhân trốn. Lương đã bị dồn đến đường cùng, sập bẫy, đã chạy trốn nên bị bắn chết với lý do vượt ngục.

 

Cũng vậy, với Huỳnh và Trần. Biết Huỳnh bị đau tim nặng, cứ đến đêm là có lệnh của cấp trên gọi “làm việc”. Để rồi một đêm nọ trái tim anh đã ngừng đập khi có lệnh gọi. Họ giết Trần còn tinh vi hơn. Sau khi chị Hiếu, vợ Trần (đang mang thai) đã chết do tai nạn trên đường đến trại tù thăm chồng vào một ngày mưa gió, họ đã chôn chị ở cánh đồng làng Nguyệt bên kia sông nơi có một đồn Tây. Rồi Trần được trả tự do và anh đã chết dưới họng súng của giặc Pháp trong đêm giao thừa khi bơi sang bên kia sông để thăm mộ vợ con.

 

Vài ngày sau, một tờ báo của kháng chiến tỉnh Thừa Thiên đưa tin (dĩ nhiên là láo khoét):

“Thông cáo chính thức của Tỉnh bộ Thừa Thiên:

Nguyễn Trần, nguyên chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Quân Đội Nhân Dân, trước đây đã có hành động phản cách mạng, phản nhân dân, vừa được chính phủ khoan hồng phóng thích ra khỏi trại Cải hối Tây Hạ sau thời gian học tập cải huấn. Đêm giao thừa rạng ngày mồng một Tết, tên Nguyễn Trần đã bỏ mạng trên cánh đồng làng Nguyệt vì dẫm phải mìn trong khi y đang tìm đường đi đến đồn Pháp gần đó để toan đầu hàng giặc.”

 

Tuy là một cuốn tiểu thuyết với nội dung chuyển tải nặng về phần chính trị nhưng lại là một cuốn sách với văn chương rất đẹp và thấm đẫm tính nhân văn. Mở bất cứ trang sách nào, ngay cả ở những đoạn buồn thảm nhất, ta cũng có thể dễ dàng tìm thấy.

 

“Hình ảnh Hiếu khi chiều hiện lên rõ rệt trong trí chàng, những người bạn tù mang nàng vào trại, khuôn mặt trắng bệt lấm láp bùn đất, miệng nàng khẽ hé mở như một tiếng van xin mơ hồ, hai mắt nhắm nghiền ướt đẫm, mái tóc xõa ra bết lại rũ xuống lòng thòng nhỏ giọt nước mưa, áo quần sũng nước dính bết vào người làm nổi lên cái bụng có thai căng phồng, tròn trĩnh; khi nhìn cái bụng đột nhiên một ý tưởng xẹt qua đầu Trần khiến tim chàng nhói lên sợ hãi. Chàng thấy hình thù cái bụng chửa của người yêu trông như một nấm mộ nhỏ. Giờ đây ý nghĩ ấy lại trở lại với chàng, như một tương quan kỳ bí về sự sinh và tử. Tại sao lại có cái hình thức giống nhau giữa con người khi sắp sinh ra được che chở bằng cái bụng của người mẹ trong hình thái một cái bầu tròn hình bán nguyệt với con người khi đi vào lòng đất được đánh dấu bằng một cái gò nổi cao lên cũng giống một cái hình bán nguyệt hay dưới bất cứ hình thức nào thì cũng thế. Những điều ấy nói gì đây, nó chứng tỏ gì trong cái khôn cùng của đời sống này?”

 

Hay:

 

“Cơn mưa đã dứt từ lâu, hơi nước trong không gian vẫn còn trĩu nặng, đâu đó những giọt tranh kêu tí tách, rời rạc, khiến chàng nhớ câu nói của Trường, một bạn tù, vào một ngày đi chặt cây trong rừng, thình lình trời đổ mưa... - Nghĩ cái thân phận của một hạt mưa còn long đong như thế huống hồ cái thân tù của anh em mình, nước từ suối đổ ra sông, từ sông ra biển, từ biển bốc thành hơi nước bay lên trời, thành mây bay lang thang, chán mới tụ lại thành giọt mưa rơi trên ngọn lá, từ ngọn lá rơi xuống mái hiên này, lượn qua lượn lại kéo dày kéo mỏng còn chán khó khăn mới rơi được xuống để thấm vào lòng đất. Khó lắm anh em ơi.”

 

Và:

“Trần tiếp tục đắm mình trong suy tưởng, trong khi cơn mưa vẫn nặng hạt. Quả thật nếu mọi sự việc trong đời đều do Trời sắp đặt thì Trời quả thật là một đại nghệ sĩ. Đấng Toàn Năng phải thật là nghệ sĩ mới tạo nên được những cơ duyên mang lại cái tư cách kiêu bạc khiếp đảm đến thế kia nơi một gã thư sinh mặt trắng. Cuộc kháng chiến này đã biến đứa trẻ Việt Nam thành chiến sĩ anh hùng, chưa đủ, Thượng Đế còn bắt người Việt Nam gánh chịu một thử thách đau thương vĩ đại, cuộc vật lộn cam go giữa con người thuần khiết Á đông gìn giữ giá trị chân tuyền của lẽ sống với con người tham vọng cùng những giấc mơ kỳ bí quái đản, nhưng đam mê dữ dằn khốc liệt của loài người.”

 

Gấp cuốn sách lại, tôi vẫn còn suy nghĩ và nuối tiếc. Ngày ấy, nếu tất cả mọi người hiểu rõ được Cộng sản là như thế nào, thì có lẽ chuyện buồn thảm nhất của lịch sử Việt Nam đã không xảy ra.

Có phải vậy không?

 

Trần thị Nguyệt Mai

18-7-2021

 

 

Tham khảo:

 

[1] Trần Thị Nguyệt Mai - Hành trình của Cõi Đá Vàng, TQBT số 51, tháng 4/2012.

Đã được đăng lại trên một số trang mạng.

 

[2] Nguyễn Đạt - Người ở đồn Kim Thạch

https://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=19855

 

[3] Nguyễn Đức Tùng - Nhà xưa có hoa mimosa vàng

https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=23233

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.