Hôm nay,  

Cuộc Chơi Chữ Nghĩa

30/05/202109:23:00(Xem: 2550)

 

Chu nghia
Viết lách. (hình minh họa - nguồn: www.pixabay.com)

 Loài người có văn tự chữ nghĩa tự bao giờ? Con số năm tháng ngày giờ quả là vô phương để biết chính xác. Người ta chỉ có thể ước chừng mà thôi, theo các nhà khảo cổ học, văn tự học thì chữ nghĩa tượng hình của Ai cập cách đây đã năm ngàn năm; chữ giáp cốt khắc trên mu rùa xương thú của người Hán có lẽ cũng tròm trèm thời gian như thế. Xa hơn nữa thì có những dạng chữ tượng hình khắc trên hang động, vách đá của người tiền sử ở châu Phi, châu Úc, Bắc Mỹ… có thể lên đến mười ngàn năm. Kinh Phật thời sơ kỳ, viết trên lá bối có lẽ cũng có tuổi đến hai mươi lăm thế kỷ. Chữ nghĩa nở rộ và phát triển từ khi loài người phát minh ra giấy, mực và kỹ thuật in ấn. 

 Thế gian này có bao nhiêu dân tộc thì có bấy nhiêu ngôn ngữ, tuy nhiên chữ viết thì lại là vấn đề khác. Có nhiều dân tộc không có chữ viết, có nhiều dân tộc vì nhiều lý do mà dùng chung một thứ ngôn ngữ hay chữ viết. Chẳng hạn như người Việt chúng ta, trước khi có chữ quốc ngữ, chúng ta vẫn dùng chữ Hán ( chữ Nôm thoát ra từ chữ Hán nhưng không được sử dụng chính thức). Nhiều dân tộc ở vùng bắc Mỹ bị Tây Ban Nha đô hộ và đồng hóa, họ bị mất cả ngôn ngữ và tín ngưỡng riêng, từ đó họ sử dụng tiếng Tây Ban Nha và theo đạo Cơ Đốc, chẳng hạn như: Mễ Tây Cơ, El Salvado, Guatemala, Honduras, Nicaragua… Có một số dân tộc khác thì sử dụng tiếng Bồ Đào Nha như Brazil, Guinea-Bissau, Angola, Mozambique, Đông Timor... Những quốc gia và dân tộc chịu sự cai trị của người Anh thì sử dụng tiếng Anh như: Úc Đại Lợi, Phi Luật Tân, New Zealand  và nhiều nước ở châu Phi.

 Tiếng Việt và chữ Việt vốn do các cố đạo châu Âu đến nước ta để truyền giáo chế ra, nhằm mục đích dễ dàng và thuận  tiện cho việc việc truyền giáo, nhưng dần dần trở thành ngôn ngữ chính thức của người Việt. Những vị tiêu biểu như:  Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes... 

 Dù sử dụng ngôn ngữ nào, dù là tây hay ta, dù là xưa hay nay… những tay du tử mang nghiệp chữ là những kẻ bị buộc ràng trong cuộc chơi gian nan, nhọc nhằn nhưng đầy thú vị và đam mê. Chữ nghĩa xưa nay đã từng mang lại không ít tai họa cho những kẻ viết và những kẻ liên can. Vấn đề này trước hết phải nói đến sử Tàu, suốt nhiều ngàn năm lịch sử đã từng và cho đến tận hôm nay vẫn thế.

Những kẻ mê chữ nghĩa luôn đối mặt với những tai họa bất ngờ và những tai họa có thể đoán trước. Thời Xuân  thu chiến quốc, ba anh nhà thái sử Bá, thái sử Trọng vì dám viết sự thật mà cả ba anh em lần lượt bị chém đầu. Thảm án “ Phần thư khanh nho” đời Tần Thủy Hoàng là một sự kiện khinh động đất trời, lịch sử xưa nay vẫn nhắc nhở hoài: hơn bốn trăm sáu mươi nho sĩ bị chôn sống, hàng ngàn người khác thì trục xuất, lưu đày hoặc diệt tộc…Dưới các triều đại phong kiến, những kẻ viết lách, những tay du tử mang nghiệp chữ luôn luôn có một thanh gươm treo lơ lửng trên đầu, chỉ cần sơ suất một chữ phạm húy là gặp họa ngay, không chỉ bản thân kẻ viết mà gia đình, bạn bè của kẻ viết cũng họa lây, phần lớn đều là những chụp mũ suy diễn mơ hồ vô căn cứ. Lịch sử đôi khi cũng có một vài trường hợp ngoại lệ, Trần Lâm có lẽ là một trong vài trường hợp như thế. Trần Lâm văn hay chữ tốt, từng viết hịch kể tội tào Tháo, mạ lỵ cả ba đời Tào Tháo, ấy vậy mà khi Tào Tháo bắt được Trần Lâm. Mọi người những tưởng y sẽ bị cực hình nào ngờ Tào Tháo  chẳng những tha bổng mà còn dùng y làm thuộc hạ. Chuyện này sử sách xưa nay hiếm, đừng nói bên Tàu mà ngay cả bên tây cũng chẳng mấy khi thấy. Có thể nói cái duyên phận phước phần của Trần Lâm quá lớn, một tay du tử mang nghiệp chữ có phúc phận tốt đẹp hiếm thấy. 

 Cuộc chơi chữ nghĩa nguy hiểm lắm, tàn khốc lắm. Hai triều Minh, Thanh với những vụ án “ Ngục văn tự” vô cùng thảm khốc, có lẽ đây là giai đoạn bất hạnh nhất của những gã mang nghiệp chữ. Có vô số người viết lách bị tù đày, ngục hình, truy sát, diệt tộc. Triều đình nghi kỵ, cho người dò xét kỹ từng câu, từng chữ mà bọn mang nghiệp chữ viết ra. Có thể kể vài vụ tiêu biểu như: Đời Minh Thái Tổ, Lâm Nguyên Lượng, Triệu Bá Ninh vì chữ “ Tác tắc” mà bị chém đầu; Hứa nhất Khả, Hứa Nguyên vì chữ “ Pháp khôn” mà bị tùng xẻo; nhà thơ Cao Khải vì câu:” Hổ cứ long bàn” mà bị xé xác làm tám mảnh; nhà văn Phương Hiếu Nhu vì chữ nghĩa mà bị chém cùng cả cửu tộc lên đếm tám trăm bảy mươi ba người… Đời Thanh, Lý Lịch Triết, Trình Duy Phiên vì viết lời bạt cho bộ Minh sử mà bị tội tùng xẻo giữa chợ, con cái bị trảm, số người bị giết lên đến bảy mươi hai người. Đới Danh Thế, Phương Hiếu Tiêu vì viết quyển:” Điềm kiềm ký văn” mà bị chết chém và ba trăm người khác cũng liên lụy phạt trượng hoặc tù đầy...

 Châu Âu vào giai đoạn của đêm trường trung cổ cũng có vô số những vụ án có liên quan đến chữ nghĩa và khoa học. Galileo Galilei chỉ vì câu “ Quả đất quay quanh mặt trời” mà suýt bị lên giàn hỏa thiêu. Galilei không đơn thuần là một người viết sách, ông là một nhà thiên văn học, vật lý học, toán học, ông là người đặt nền móng cho khoa thiên văn và vật lý hiện đại. Ông đã viết cuốn:” Người thí nghiệm”, “ Đối thoại về hai hệ thống thế giới”…Vì những gì ông viết ra mà phải bị giam lỏng suốt đời, bị tòa án dị giáo của Vatican trừng phạt.  Có rất nhiều người viết sách trình bày sự thật về khoa học nhưng trái với quan điểm của Vatican hay triều đình mà bị tù đày, chém đầu, treo cổ, hỏa thiêu…

 Lịch sử Việt, suốt chiều dài phong kiến, những kẻ viết lách cũng nơm nớp sợ, vì đam mê chữ nghĩa, vì mang nghiệp chữ  mà lãnh họa. Triều đình với quan điểm chính thống, lập ra một hệ thống chuyên dò xét, tra tìm, bới lông vạch vết… để duyệt những gì mà bọn đam mê chữ nghĩa viết ra. Có những người chỉ vì một chữ phạm húy mà mang họa vào thân, nhẹ thì đi đòn roi, trục xuất, hoặc “ Chung thân bất đắc ứng thí”, còn nặng hơn nữa thì có thể mất mạng, gia tộc bị họa lây. Việc chụp mũ, suy diễn vu vơ cũng rất tùy tiện và vô cùng phi lý, chỉ một câu mơ hồ nào đó cũng có thể quy chụp thế này thế kia để mà hành tội kẻ viết ra. Đời nhà Nguyễn có một vụ án liên quan đến văn tự đó là vụ cha con Nguyễn Văn Thành. Nguyễn Văn Thuyên viết bài thơ “ Đánh cờ” và bị bọn cơ hội xàm tấu cho là có ý định phản loạn nên vua kết án tử ( thật sự thì Gia Long đã có ý định giết cha con Nguyễn Văn Thành rồi, bài thơ chỉ là cái cớ mà thôi!). Những kẻ xàm tấu vin vào câu cuối của bài thơ:” Tá ngã kinh luân chuyển hóa ky” cho là mưu phản. Nguyễn Văn Thành là đại khai quốc công thần, giúp rập Gia Long bị chính Gia Long hạ ngục và ép uống thuốc độc. Nguyễn Văn Thuyên con trưởng Nguyễn Văn Thành vừa là phò mã của Gia Long thì bị chém, gia tộc Nguyễn Văn Thành bị triệt hạ.

 Lịch sử Việt Nam, mỗi lần thay đổi triều đại, đời sau luôn tìm mọi cách xóa sạch dấu vết cơ nghiệp của đời trước, Với những triều đại đối nghịch thì việc này càng thảm khốc hơn, đến một nét chữ cũng phải xóa cho bằng được, dù có phải đào núi, lấp biển hay đốt cả sơn hà. Một khi những dấu vết cơ nghiệp của triều trước bị xóa thì dĩ nhiên chữ nghĩa và những kẻ viết ra chúng cũng bị liên đới. Gia Long lên ngôi. Lập tức tận pháp trả thù, tận lực xóa bỏ những dấu ấn của Tây Sơn. Những người liên can với Tây Sơn cũng bị truy sát, diệt tộc… Giai đoạn này có một vụ án bi thảm liên quan đến Ngô Thời Nhậm, một trung thần, một nhà ngoại giao có tài, một văn nhân danh tiếng. Đặng Trần Thường đem Nhậm ra đánh trước văn miếu, y ngạo nghễ với tư thế của kẻ tiểu nhân được thời:

“Ai công hầu ai khanh tướng giữa trần ai ai dễ biết ai”

 Ngô Thời Nhậm đáp 

 “Thế Chiến quốc thế Xuân thu gặp thời thế thế thời phải thế” 

 Ngô Thời Nhậm chết vì đòn thù, không chỉ vì liên can đến nhà Tây Sơn mà còn vì chữ nghĩa của mình

 Lịch sử Việt Nam hiện đại cũng chẳng khác gì lịch sử xa xưa, sau khi cuộc nội chiến tàn. Bên thắng trận đã thiêu huỷ, phế bỏ toàn bộ nền văn học nghệ thuật của bên bại trận. Những kẻ viết lách, những tay du tử mang nghiệp chữ  đều bị  mạ lỵ, tù đày, hành hạ, triệt đường sống. Chữ nghĩa xưa nay vẫn cứ lập lại những chuyện bi thương, vừa nhọc nhằn, vừa nguy hiểm nhưng cũng đầy dụ hoặc đam mê. Những kẻ mang nghiệp chữ khó mà dứt bỏ được nghiệp của mình. Người xưa ví những kẻ viết lách như con tằm nhả tơ, con tằm rút ruột nhả ra những sợi tơ óng ả, dâng cho đời cái đẹp. Bọn viết lách rút tâm can viết nên chữ nghĩa cho đời. Nếu con tằm nhả tơ để dệt nên những mảnh lụa quý, bọn viết lách lại vắt óc viết cho đời những tác phẩm hay. Tuy nhiên cũng có những kẻ cùng mang nghiệp chữ nhưng vì danh lợi, vì quyền thế mà xu phụ để rồi viết ra những điều quái gở, nhảm nhí, nâng bi. Bọn ấy viết với tà tâm, hắc tâm, loạn tâm… thì cái sản phẩm cũng phản ánh cái tâm chúng như vậy! 

 Cuộc chơi chữ nghĩa rất nghiệt ngã, nó không chỉ bị khống chế, tra xét của triều đình, của nhà cầm quyền mà còn bị sự soi khảo của đồng nghiệp. Thời đại hôm nay và nhất là với người Việt, việc viết lách vốn chẳng được lợi lạc gì mà lại còn thêm rất nhiều rắc rối và phiền phức. Tuy là vậy nhưng mấy ai bỏ cuộc chơi? Viết lách không là nghề mà là nghiệp, đã là nghiệp thì muốn cũng không được mà không muốn cũng không xong. Những kẻ mang nghiệp chữ, những tay du tử đam mê viết lách là những kẻ khổ dâm. Nếu bọn khổ dâm chỉ sướng khi bị mắng chửi, đánh đập, hành hạ… thì những kẻ viết lách cũng thế, ngày đêm suy nghĩ tìm ý, lao tâm khổ tứ, vắt lòng nặn óc, rị mọ viết lách. Bọn khổ dâm càng bị hành hạ càng sướng thì bọn viết lách càng cực thì viết mới hay, càng bị bức bách càng viết xuất thần. Nếu những kẻ mang nghiệp chữ mà có cuộc sống phong lưu hoan lạc, đời sống phủ phê êm ấm thì khó mà viết được, ấy là chưa nói khó có thể viết hay. 

 Người Việt xưa nay vốn có tiếng hay chống báng nhau, kình cãi nhau, bôi mặt đá nhau thì những kẻ viết lách gốc Việt cũng chẳng khác gì đồng hương không viết lách của mình. Bọn họ rất phiền toái, rất đa đoan, người trên không dung kẻ dưới, kẻ dưới chẳng phục người trên, người trước đạp kẻ sau, kẻ sau hỗn người trước. Người cùng thời, nếu là đồng đảng đồng bang thì “Áo thụng vái nhau”, nếu khác nhóm khác tông thì đạp đến bùn đen, cũng có không ít những trường hợp trước mặt thì khen nhưng sau lưng thì dè biểu chê bai. Trong giới viết lách gốc Việt, nhất là miền đất ngoài vĩ tuyến, người ta thường truyền tụng câu:” Văn mình vợ người”, nội câu ấy đủ nói lên hết rồi, cái tài không biết tới đâu nhưng cái “Tôi” thì to như núi. Chỉ cần vạch ra một lỗi của ngữ pháp, cái vụng của câu văn, cái thô của nội dung...là  gây thù chuốc oán như chơi!

 Viết lách chẳng lợi lạc gì, thế mà những kẻ viết lách chẳng bỏ được. Chữ nghĩa từ ngữ vốn chỉ chừng nhiêu ấy, nhưng một khi nó qua đầu óc của bọn họ thì nó sẽ được biến hóa thành những tác phẩm khác nhau. Bọn viết lách như những kẻ chơi trò chơi ráp hình, với những mảnh rời, bọn họ sẽ ghép lại thành những bức tranh. Kẻ khéo tay thì cho ra bức tranh đẹp hoàn hảo, kẻ vụng thì bức tranh xấu hoặc thô lậu dở dang. Có những kẻ mang nghiệp chữ, chỉ chú trọng nghệ thuật, nặng về kỹ thuật, tránh né chuyện dân tình quốc sự, không quan tâm chuyện nhân văn. Tuy nhiên cũng có kẻ lại quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh. Đời vốn muôn hình vạn trạng, cuộc chơi chữ nghĩa cũng thế thôi, vì những kẻ viết lách chỉ đơn giản là những tấm gương phản chiếu lại bóng ảnh xã hội và tâm tư của con người. 

 Xã hội hôm nay ( ngày xưa cũng thế) có ba vấn đề rất dễ gây ra xào xáo thị phi: Chính trị, tôn giáo, giới tính. Bây giờ tuy có cởi mở hơn, có giao lưu rộng rãi hơn, có hiểu biết nhiều hơn nhưng sức ỳ, sự bảo thủ trong tâm trí con người vẫn rất nặng nề, tuy nhiên cái mức độ nặng hay tùy thuộc vào từng vùng, từng khu vực, từng quốc độ mà khác nhau. Nhìn chung ba vấn đề này rất dễ bị ném đá dã man, dễ bị chụp mũ võ đoán,  dễ bị kết án mơ hồ… Tay du tử, nhà thơ người Iran là Salman Rushdie vì viết tập thơ: ”Những vần thơ của quỷ satan” mà bị kết án tử hình, suốt mấy chục năm nay ẩn mình trong bóng tối, không dám xuất đầu lộ diện, có lẽ phải lẩn trốn cho đến chết! Lưu Hiểu Ba, một tay viết tài ba, đoạt giải Nobel văn chương nhưng lại bị ngược đãi, bị bỏ tù, gia đình ly tán và cuối cùng chết trong tù. Xứ Việt thì nhiều lắm, không biết bao người bị tù đày, hành hạ, triệt đường sống chỉ vì nghiệp chữ của mình. Những cây bút của “Nhân văn giai phẩm” chẳng hạn, những tay du tử mang nghiệp chữ của VNCH chẳng hạn và hiện nay những người đam mê viết, đam mê chữ nghĩa cũng bị xã hội đen, xã hội đỏ mạ lỵ, truy bức, tù đày, triệt đường sống…

 Thế gian này, thời đại hôm nay, có lẽ vùng đất Âu – Mỹ là nơi lý tưởng nhất, tự do nhất, thoải mái nhất cho những kẻ mang nghiệp chữ. Ai muốn viết gì thì viết, muốn in thì cứ in, chẳng bị ai kiểm duyệt, cái quan trọng là viết ra có ai đọc hay không, sản phẩm in ra có bán được hay không mà thôi! Âu  - Mỹ vốn tự do và minh bạch về chính trị, nhân văn về mọi mặt, tuy nhiên kẻ viết cũng phải cân nhắc những gì mình đề cập đến, vì rất dễ bị lôi ra tòa bởi những gì mình viết ra, kiện cáo là một việc rất thường tình ở xứ này! Âu – Mỹ tự do là thế, nhưng người Việt ở đây thì lại khác. Nếu ở xứ độc tài toàn trị, những người viết bị kiểm duyệt gắt gao thì hải ngoại lại bị chính đồng hương “kiểm duyệt”. Nếu viết về cái xấu của độc tài thì không sao, nhỡ mà vạch nhữngc ái xấu, cái sai của phe ta thì lập tức cũng bị chụp nón cối, bị ném đá không thương tiếc. Xem ra cái tánh thích khen mình chê người của người Việt ở đâu cũng thế cả. Cực nhọc nghiệp chữ của những kẻ viết, nguy hiểm thay cho cuộc chơi chữ nghĩa ở thế gian này.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất Lăng thành, 05/2021

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.