(1284 - 1330)
Ông quê huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, thân phụ là ông Đồng Thuần Mậu, thân mẫu là bà Võ Từ Cứu, ông là vị Tổ thứ hai của phái Trúc Lâm thiền tông Việt Nam.
Năm Giáp Thìn (1304), Thượng hoàng Trần Nhân Tông từ hoàng cung Vũ Lâm về núi Yên Tử, Đồng Kiên Cương quỳ giữa đường xin theo làm thị giả, lúc ấy Đồng Kiên Cương 21 tuổi. Nhân Tông khen ông có pháp nhân, thâu làm đệ tử, đặt pháp hiệu là Thiện Lai. Đến năm 1305, thấy ông học lực tinh tiến, Nhân Tông lại đặt pháp hiệu cho ông là Pháp Loa.
Năm 1308, tại chùa Siêu Loại, có sự chứng kiến của vua Trần Anh Tông cùng đông đảo quần thần, tăng nhân và phật tử. Đệ nhất Tổ Trúc Lâm Điều Giác Ngự hoàng (Nhân Tông), lập lễ đàn trang trọng truyền đăng cho Thiền sư Pháp Loa. Từ đó Thiền sư Pháp Loa trở thành Đệ nhị Tổ thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Sau đó, ông làm trụ trì chùa Siêu Loại, làm chủ sơn môn Yên Tử và coi sóc hơn 200 bộ kinh điển.
Sau khi Điều Giác Ngự Hoàng truyền đăng cho Pháp Loa (1308), thì viên tịch ở Ngọa Vân am, Thiền sư Pháp Loa lo phụng tống xá lợi vào đại nội. vua Trần Anh Tông tôn Pháp Loa làm Quốc sư và phong là Anh mẫn phủ tuệ tôn giả.
Thiền sư Pháp Loa cũng nhận sắc truyền giới xuất gia cho Tuyên Từ Hoàng thái hậu và Thiên Trinh trưởng Công chúa và phụng chiếu định chức các tăng đồ. Thiền sư Pháp Loa đã cho đúc 1300 tượng Phật, dựng ba đài giảng đạo, năm ngôi tháp, 200 sở tăng đường.
Năm 1309, Thiền sư Pháp Loa cùng môn nhân xây bảo tháp, để bảo quản xá lợi của Điều Giác Ngự hoàng Trần Nhân Tông trong lăng Quy Đức, trước chùa Hoa Yên. Thiền sư bắt đầu xây dựng chùa khắp nơi, như ở Côn Sơn, Thanh Mai... nổi tiếng nhất là tăng viện Quỳnh Lâm. Đồng thời Thiền sư cho đúc các chuông đồng cho các chùa.
Tháng 2 năm 1330, tại tăng viện Quỳnh Lâm (Đông Triều), trước sự chứng kiến của Trần Minh Tông cùng quần thần và đông đảo chúng tăng. Thiền sư Pháp Loa sắc phong Huyền Quang làm Tổ truyền đăng kế tiếp Thiền phái Trúc Lâm.
Ngày 3-3-1330, Thiền sư Pháp Loa viên tịch, hưởng dương 46 tuổi. Ông đã để lại các tác phẩm:
- Đoạn sách lục
- Tham thiền yếu chỉ
- Kim cương đạo tràng đà la ni kinh
- Tán pháp hoa kinh khóa số
- Bát nhã tâm kinh khoa
Trước khi lâm chung, ông đọc bài kệ trước mấy ngàn đệ tử:
Vạn duyên tuyệt đoạn nhất thân nhàn,
Tứ thập dư niên mộng huyễn gian.
Trân trọng chư nhân hưu quái vấn,
Na biên phong nguyệt cánh cư khoan.
Nghĩa Nôm:
Muôn duyên bỏ được mới nhàn thân
Hơn bốn mươi năm mộng cõi trần
Nhắn nhủ người đời đừng thắc mắc
Bên kia trăng gió sáng vô ngần
Sau khi Thiền sư Pháp Loa viên tịch, các đệ tử đem thi hài về núi Thanh Mai. Đến ngày 11-3-1330, Thái thượng hoàng Minh Tông ngự bút truy tặng Thiền sư Pháp Loa tôn hiệu là Tịnh trí Đại Tôn Giả, ban mười lượng vàng để xây tháp gọi là tháp Viên Thông. Vua Trần Hiến Tông có làm bài thơ viếng Thiền sư; đặc biệt có 2 câu đáng lưu ý:
“Tự tòng Pháp Loa khứ thế hậu
Thiên hạ Thích tử không vô nhân”.
Nghĩa là:
Pháp Loa từ biệt cõi đời,
Khắp trong thiên hạ ai người chân tu!?
Ở chùa Thanh Mai tại quê của ông nay còn nhiều di tích, và tại chùa Hương Thảo còn có bài bia ghi tiểu sử ông.
Cảm niệm: Thiền Sư Pháp Loa
Nhị Tổ Trúc Lâm, danh rạng ngời
Đạo vàng soi sáng giúp muôn nơi
Trùng tu, tôn tạo nhiều chùa tháp
Hoằng pháp từ bi rọi sáng ngời!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn