Nhìn Lại Chân Dung Của Hai Ông Tướng
Đỗ xuân Tê
Trong mấy ngày trung tuần tháng 7, có hai ông tướng của miền Nam đã về nơi vĩnh cửu. Hai ông đều là những vị tướng nổi tiếng một thời. Một ông nguyên là Tư lệnh của quân chủng Không quân, còn một ông đã có thời làm tư lệnh một Quân khu miền đồng bằng sông Cửu. Chưa kể những chức vụ quan trọng cho đến ngày mất nước, một vị đã trở thành Phó tổng thống của VNCH, còn vị kia được trao chức Cố vấn quân sự cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hai ông đều là những khuôn mặt được dư luận và báo chí miền nam ngày ấy nhắc tên nhắc tuổi, không hẳn trên cương vị tướng lãnh đương thời mà nặng về những giai thoại đời tư cá nhân và những lời đồn thổi về công việc ‘làm ăn’ sau hậu trường chính trị. Hai người tuy cùng là ‘huynh đệ chi binh’ nhưng khi cùng ngồi trong dinh Độc Lập đã trở thành hai kẻ nội thù mỗi người theo một phe phò một chủ, thậm chí trong lúc tranh tối tranh sáng của những ngày tàn cuộc, ông nọ còn đòi bỏ tù ông kia.
Ra đến hải ngoại, một ông tiếp tục được dư luận và truyền thông Việt-Mỹ nhắc nhở soi mói, lúc tâng bốc lúc coi thường, một ông thực sự hết thời, mờ nhạt và đi dần vào quên lãng. Có điều khi nằm xuống, cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ vẫn còn là khuôn mặt được báo chí Hoa Kỳ loan tin với những hàng chữ khá trân trọng dành cho một cựu lãnh đạo miền Nam, nhưng những dư luận trái chiều trong cộng đồng hải ngoại vẫn theo chân ông do những hoạt động, tuyên bố gây nhiều tranh cãi lúc cuối đời đã mang nhiều hệ lụy mà chính ông không lường trước.
Trong khi cựu tướng ba sao Đặng Văn Quang sau những năm âm thầm sống trên đất khách đã lặng lẽ ra đi ở tuổi bát tuần, cũng có mấy tờ báo hải ngoại đăng tin cáo phó với ít dòng tiểu sử ghi lại quá trình binh nghiệp, nhưng đáng chú ý là một bài báo của tác giả Bùi văn Phú vIết cho đài BBC đã hé lộ khá nhiều chi tiết về thân phận của ông đặc biệt cảnh đời ba đào chìm nổi của một vị tướng vang bóng một thời đã trở thành trắng tay sau tháng tư đen.
Bản thân tôi ít chú ý đến tướng Kỳ vì có nhiều điều ông làm chúng tôi thất vọng kể từ khi ông làm phó cho ông Thiệu, chỉ một lần gần đây khi ghé thăm cuộc triển lãm kỷ niệm 36 năm ngày di tản do TQLC Mỹ tổ chức tại Camp Pendleton (nam California), nơi đã đón nhận đợt di tản đầu tiên những người Việt tỵ nạn trên đất Mỹ, tình cờ chúng tôi lại được xem hình ảnh của ông Kỳ và bà Mai, đại diện cho tập thể người Việt của Trại tiếp đón Đệ nhất phu nhân của tổng thống Mỹ là bà Betty Ford khi bà này ghé thăm và ủy lạo các người di tản đang tạm trú chờ ngày phân bổ định cư nơi đất mới. Dù không còn lon lá trên vai, cánh bay trên ngực, súng lục bên hông, nhưng cứ nhìn phong thái của người cựu lãnh đạo miền nam ngày ấy trong cảnh lưu vong xa xứ đã để lại trong tôi ấn tượng đẹp, làm tôi chạnh nghĩ nếu tướng Kỳ cứ tiếp tục giữ được phẩm chất của mình trong cách hành xứ đời thường thì trước sau ông vẫn được cộng đồng người Việt và tập thể chiến sĩ hải ngoại ưu ái kính trọng.
Tiếc thay nhân vô thập toàn, cho đến cuối đời ông vẫn là ‘người của đám đông’, ông muốn lui cũng không xong, muốn tránh cũng bị bắt gặp, tên ông cả hai phe trong nước và hải ngoại thường đưa ra làm bung xung cho các mục tiêu đối kháng về chính trị. Tôi nhớ chú em họ tôi ngoài Bắc khi điện thoại hỏi tôi sao anh đi lâu không về thăm quê một chuyến, tôi trả lời tôi còn …sơ, chú em đon đả, “sợ gì, thằng Kỳ người ta còn cho về, cỡ anh ăn thua gì!” Ông Kỳ đâu có biết rằng dân quê miền Bắc vẫn còn gọi ông bằng ‘thằng’ khi quen miệng cứ gọi lãnh đạo miền Nam là thằng này thằng nọ do bộ máy tuyên truyền Hà nội chủ xướng.
Nay xin có ít hàng về tướng Đặng văn Quang. Trái hẳn với ông Kỳ hay tuyên bố phát ngôn thẳng thừng ruột ngưa, ông Quang là người kín đáo, không thích xuất hiện trước đám đông, ít phô trương cá nhân và cũng không để cho đàn em tâng bốc đánh bóng về mình. Ông là một tư lệnh sư đoàn rồi quân đoàn với nhiều chiến công nhất, nổi tiếng một thời về các trận đánh ở đồng bằng sông Cửu Long vào cuối thập niên ’60. Quân khu IV hay Vùng 4 chiến thuật nhờ có ông mà Cộng sản không thể mở các trận đánh lớn, ngược lại còn bị tổn thất nặng nề do ông biết xử dụng các lực lượng cơ động quen thuộc với chiến trưòng sông rạch miền Tây, chủ yếu là các tiểu đoàn bộ binh của sư đoàn 21và các đơn vị Biệt động Cọp rằn đánh đâu thắng đấy. Khi được hỏi bí quyết thành công khi cầm quân, ông nói phải tưởng thưởng xứng đáng đúng người đúng lúc. Nhiều sĩ quan chỉ huy dưới quyền ông đã được thăng cấp rất nhanh và được trả công bằng các chức vụ hành chánh rất ‘béo bở’ của các tỉnh thành quận lỵ miền sông nước.
Cũng cần nói ông xuất thân cùng khóa với tổng thống Thiệu (khóa I Đập Đá tại Huế tiền thân của khóa I Võ bị Đà Lạt) nên người ta không lạ khi ông được vị tổng tư lệnh tín cẩn giao cho nhiều chức vụ quan trọng. Ngược lại ông cũng không dấu diếm khi coi ông Thiệu như chủ soái và những ngày cuối đời ông đã tâm sự “tôi là người mang ơn tổng thống Thiệu nhiều nhất”. Về phần ông Thiệu đã xử dụng tướng Quang như nhân vật ‘đối trọng’ với người phó là tướng Kỳ. Văn phòng của ông Phụ tá nằm giữa hai cánh của dinh Độc lập, tiếng là cố vấn quân sự nhưng thực chất quyền lực bao trùm hai lãnh vực an ninh tình báo, có nhiều liên hệ với CIA và nếu kể đối tác với người Mỹ ông có ngang quyền như ‘một Kissinger’ của Việt nam. Nhờ có ông mà ông Thiệu an tâm vì có người đắc lực giúp việc, trước mắt theo dõi chặt chẽ mọi động tĩnh của ‘phe Kỳ’ nếu có ý đồ chính biến. Phe tướng Kỳ cũng không vừa vì cứ dựa theo những tin của giới thân cận thì đàn em đã tung tin làm giảm uy tín của tướng Quang khi cáo buộc ông này hỗ trợ buôn bán bạch phiến và làm giàu bất chánh trong thời gian nắm quyền.
Ngón đòn độc này nếu có thì hệ lụy xem ra có tác dụng làm giảm uy tín của tướng Quang. Nhiều người trong anh em chúng tôi hồi ấy cũng bán tín bán nghi, nhưng khi ra đến hải ngoại thấy người tư lệnh năm xưa tưởng tiền bạc ăn đến ba đời không hết trớ trêu thay lại đang sống ‘dưới mức nghèo khổ’ tại một chung cư dành cho người già tại Sacramento! Tôi thực sự ngỡ ngàng nên đã tìm hiểu hỏi thăm bạn bè tại Bắc Cali trong đó có cựu thiếu tá Trần văn Ngà, một người làm việc dưới quyền nhưng chẳng hưởng bổng lộc gì của tướng Quang, đã giúp đỡ và gần gũi nhiều với ông bà trong những năm tháng gần đây. Anh Ngà đã có nhiều bài báo rất trung thực ca ngợi tư lệnh của mình và cũng nhằm ‘bạch hóa’ những lời đồn thổi vô căn cứ. Chúng tôi tin anh vì xưa nay anh chị vốn là người không thích ‘phù thịnh’ nhưng rất có tình trong những cảnh ‘phù suy’.
Nay thì cả hai vị tướng, một Bắc một Nam, một luôn bay bổng trên không, một miệt mài miền sông nước đã trở thành người thiên cổ. Xét cho cùng cả hai vị đều có lòng yêu nước theo cách riêng của họ. Với tư cách người lính cũ, xin mượn lời của cô Nguyễn cao Kỳ Duyên trong lời ai điếu đọc cho bố, người viết kính chúc hai vị cùng nắm tay nhau thực sự ‘THẤY BÓNG THIÊN ĐƯỜNG CUỐI TRỜI THÊNH THANG”.
Đỗ Xuân Tê
Cali, tháng 7/2011
Đỗ xuân Tê
Trong mấy ngày trung tuần tháng 7, có hai ông tướng của miền Nam đã về nơi vĩnh cửu. Hai ông đều là những vị tướng nổi tiếng một thời. Một ông nguyên là Tư lệnh của quân chủng Không quân, còn một ông đã có thời làm tư lệnh một Quân khu miền đồng bằng sông Cửu. Chưa kể những chức vụ quan trọng cho đến ngày mất nước, một vị đã trở thành Phó tổng thống của VNCH, còn vị kia được trao chức Cố vấn quân sự cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hai ông đều là những khuôn mặt được dư luận và báo chí miền nam ngày ấy nhắc tên nhắc tuổi, không hẳn trên cương vị tướng lãnh đương thời mà nặng về những giai thoại đời tư cá nhân và những lời đồn thổi về công việc ‘làm ăn’ sau hậu trường chính trị. Hai người tuy cùng là ‘huynh đệ chi binh’ nhưng khi cùng ngồi trong dinh Độc Lập đã trở thành hai kẻ nội thù mỗi người theo một phe phò một chủ, thậm chí trong lúc tranh tối tranh sáng của những ngày tàn cuộc, ông nọ còn đòi bỏ tù ông kia.
Ra đến hải ngoại, một ông tiếp tục được dư luận và truyền thông Việt-Mỹ nhắc nhở soi mói, lúc tâng bốc lúc coi thường, một ông thực sự hết thời, mờ nhạt và đi dần vào quên lãng. Có điều khi nằm xuống, cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ vẫn còn là khuôn mặt được báo chí Hoa Kỳ loan tin với những hàng chữ khá trân trọng dành cho một cựu lãnh đạo miền Nam, nhưng những dư luận trái chiều trong cộng đồng hải ngoại vẫn theo chân ông do những hoạt động, tuyên bố gây nhiều tranh cãi lúc cuối đời đã mang nhiều hệ lụy mà chính ông không lường trước.
Trong khi cựu tướng ba sao Đặng Văn Quang sau những năm âm thầm sống trên đất khách đã lặng lẽ ra đi ở tuổi bát tuần, cũng có mấy tờ báo hải ngoại đăng tin cáo phó với ít dòng tiểu sử ghi lại quá trình binh nghiệp, nhưng đáng chú ý là một bài báo của tác giả Bùi văn Phú vIết cho đài BBC đã hé lộ khá nhiều chi tiết về thân phận của ông đặc biệt cảnh đời ba đào chìm nổi của một vị tướng vang bóng một thời đã trở thành trắng tay sau tháng tư đen.
Bản thân tôi ít chú ý đến tướng Kỳ vì có nhiều điều ông làm chúng tôi thất vọng kể từ khi ông làm phó cho ông Thiệu, chỉ một lần gần đây khi ghé thăm cuộc triển lãm kỷ niệm 36 năm ngày di tản do TQLC Mỹ tổ chức tại Camp Pendleton (nam California), nơi đã đón nhận đợt di tản đầu tiên những người Việt tỵ nạn trên đất Mỹ, tình cờ chúng tôi lại được xem hình ảnh của ông Kỳ và bà Mai, đại diện cho tập thể người Việt của Trại tiếp đón Đệ nhất phu nhân của tổng thống Mỹ là bà Betty Ford khi bà này ghé thăm và ủy lạo các người di tản đang tạm trú chờ ngày phân bổ định cư nơi đất mới. Dù không còn lon lá trên vai, cánh bay trên ngực, súng lục bên hông, nhưng cứ nhìn phong thái của người cựu lãnh đạo miền nam ngày ấy trong cảnh lưu vong xa xứ đã để lại trong tôi ấn tượng đẹp, làm tôi chạnh nghĩ nếu tướng Kỳ cứ tiếp tục giữ được phẩm chất của mình trong cách hành xứ đời thường thì trước sau ông vẫn được cộng đồng người Việt và tập thể chiến sĩ hải ngoại ưu ái kính trọng.
Tiếc thay nhân vô thập toàn, cho đến cuối đời ông vẫn là ‘người của đám đông’, ông muốn lui cũng không xong, muốn tránh cũng bị bắt gặp, tên ông cả hai phe trong nước và hải ngoại thường đưa ra làm bung xung cho các mục tiêu đối kháng về chính trị. Tôi nhớ chú em họ tôi ngoài Bắc khi điện thoại hỏi tôi sao anh đi lâu không về thăm quê một chuyến, tôi trả lời tôi còn …sơ, chú em đon đả, “sợ gì, thằng Kỳ người ta còn cho về, cỡ anh ăn thua gì!” Ông Kỳ đâu có biết rằng dân quê miền Bắc vẫn còn gọi ông bằng ‘thằng’ khi quen miệng cứ gọi lãnh đạo miền Nam là thằng này thằng nọ do bộ máy tuyên truyền Hà nội chủ xướng.
Nay xin có ít hàng về tướng Đặng văn Quang. Trái hẳn với ông Kỳ hay tuyên bố phát ngôn thẳng thừng ruột ngưa, ông Quang là người kín đáo, không thích xuất hiện trước đám đông, ít phô trương cá nhân và cũng không để cho đàn em tâng bốc đánh bóng về mình. Ông là một tư lệnh sư đoàn rồi quân đoàn với nhiều chiến công nhất, nổi tiếng một thời về các trận đánh ở đồng bằng sông Cửu Long vào cuối thập niên ’60. Quân khu IV hay Vùng 4 chiến thuật nhờ có ông mà Cộng sản không thể mở các trận đánh lớn, ngược lại còn bị tổn thất nặng nề do ông biết xử dụng các lực lượng cơ động quen thuộc với chiến trưòng sông rạch miền Tây, chủ yếu là các tiểu đoàn bộ binh của sư đoàn 21và các đơn vị Biệt động Cọp rằn đánh đâu thắng đấy. Khi được hỏi bí quyết thành công khi cầm quân, ông nói phải tưởng thưởng xứng đáng đúng người đúng lúc. Nhiều sĩ quan chỉ huy dưới quyền ông đã được thăng cấp rất nhanh và được trả công bằng các chức vụ hành chánh rất ‘béo bở’ của các tỉnh thành quận lỵ miền sông nước.
Cũng cần nói ông xuất thân cùng khóa với tổng thống Thiệu (khóa I Đập Đá tại Huế tiền thân của khóa I Võ bị Đà Lạt) nên người ta không lạ khi ông được vị tổng tư lệnh tín cẩn giao cho nhiều chức vụ quan trọng. Ngược lại ông cũng không dấu diếm khi coi ông Thiệu như chủ soái và những ngày cuối đời ông đã tâm sự “tôi là người mang ơn tổng thống Thiệu nhiều nhất”. Về phần ông Thiệu đã xử dụng tướng Quang như nhân vật ‘đối trọng’ với người phó là tướng Kỳ. Văn phòng của ông Phụ tá nằm giữa hai cánh của dinh Độc lập, tiếng là cố vấn quân sự nhưng thực chất quyền lực bao trùm hai lãnh vực an ninh tình báo, có nhiều liên hệ với CIA và nếu kể đối tác với người Mỹ ông có ngang quyền như ‘một Kissinger’ của Việt nam. Nhờ có ông mà ông Thiệu an tâm vì có người đắc lực giúp việc, trước mắt theo dõi chặt chẽ mọi động tĩnh của ‘phe Kỳ’ nếu có ý đồ chính biến. Phe tướng Kỳ cũng không vừa vì cứ dựa theo những tin của giới thân cận thì đàn em đã tung tin làm giảm uy tín của tướng Quang khi cáo buộc ông này hỗ trợ buôn bán bạch phiến và làm giàu bất chánh trong thời gian nắm quyền.
Ngón đòn độc này nếu có thì hệ lụy xem ra có tác dụng làm giảm uy tín của tướng Quang. Nhiều người trong anh em chúng tôi hồi ấy cũng bán tín bán nghi, nhưng khi ra đến hải ngoại thấy người tư lệnh năm xưa tưởng tiền bạc ăn đến ba đời không hết trớ trêu thay lại đang sống ‘dưới mức nghèo khổ’ tại một chung cư dành cho người già tại Sacramento! Tôi thực sự ngỡ ngàng nên đã tìm hiểu hỏi thăm bạn bè tại Bắc Cali trong đó có cựu thiếu tá Trần văn Ngà, một người làm việc dưới quyền nhưng chẳng hưởng bổng lộc gì của tướng Quang, đã giúp đỡ và gần gũi nhiều với ông bà trong những năm tháng gần đây. Anh Ngà đã có nhiều bài báo rất trung thực ca ngợi tư lệnh của mình và cũng nhằm ‘bạch hóa’ những lời đồn thổi vô căn cứ. Chúng tôi tin anh vì xưa nay anh chị vốn là người không thích ‘phù thịnh’ nhưng rất có tình trong những cảnh ‘phù suy’.
Nay thì cả hai vị tướng, một Bắc một Nam, một luôn bay bổng trên không, một miệt mài miền sông nước đã trở thành người thiên cổ. Xét cho cùng cả hai vị đều có lòng yêu nước theo cách riêng của họ. Với tư cách người lính cũ, xin mượn lời của cô Nguyễn cao Kỳ Duyên trong lời ai điếu đọc cho bố, người viết kính chúc hai vị cùng nắm tay nhau thực sự ‘THẤY BÓNG THIÊN ĐƯỜNG CUỐI TRỜI THÊNH THANG”.
Đỗ Xuân Tê
Cali, tháng 7/2011
hình như câu trên là một câu trong một bài hát ma` NCKD đã "mượn đở". Anh nằm xuống ......
Tiếng Việt Còn. Người Việt Còn
Nếu tiếng Việt không giống của người Việt mà là theo kiểu của "người lạ" thi` còn là người Việt Nam không ?
nguoi thu c/s
Thành kính nguyện cầu Bác Đặng văn Quang và Bác Nguyễn Cao Kỳ "Thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang"
Bạn coá nghĩ rằng khi bé, cha mẹ mình ngăn không cho mình giao du với bọn cướp..nhưng khi lớn lên, mình thích theo bọn cướp quá đi nên tung lên cái màn chửi cha mắng mẹ cùng họ hàng cô bác ..với hy vọng được bọn cướp thu nhập mình ? Không cố chấp, chỉ thấy loạ mà thoai.