GIỤC GIÃ BIỂN ĐÔNG II
Đào Như
Ngày 23-6-11, qua cuộc phỏng vấn với phóng viên của BBC, một giới chức Mỹ, ông Nguyễn Mạnh Hùng, Tiến sĩ Giáo sư chuyên ngành ‘Chính phủ Hoa kỳ và Quan Hệ Quốc Tế’, thuộc Viên Đại học Geoge Manson, đánh tiếng:
“Hoa kỳ sẽ không can thiệp quân sư nếu Trung Quốc tấn công Việt Nam ở Biển Đông…Mối quan hệ hiện nay giữa Hà nội và Washington cần phải được thay đổi khác nhiều lắm để có thể Viêt Nam được Hoa kỳ bảo vệ trong trường hợp bị TQ tấn công tại Biển Đông…Chúng ta thấy Hoa kỳ tuyên bố với Nhật Bản rất rõ rệt. Đảo Shenkaku Nhật Bản hiện đang đóng và Hoa Kỳ có liên minh quân sự với nhật. Nếu nhật bị tấn công hoa kỳ sẽ giúp đỡ…Rồi với Philippines thì đại sứ Hoa kỳ cũng nói Hoa kỳ ủng hộ quan điểm của Philippines. Cái đó rất rõ bởi vì họ có hiệp ước với nhau…”.
Khi ông Nguyễn Hùng, phóng viên của BBC-London hỏi: Quan hệ giữa hai bên Mỹ Việt cần được cải thiện tới đâu để mới có mối quan hệ tương tự như Mỹ với Nhật và như Mỹ với Philippines"
GSTS Nguyễn M. Hùng nói:
“Tôi nghĩ rằng phải được cải thiện thêm rất nhiều nữa, hai bên phải tin tưởng lẫn nhau rất nhiều nữa..”.
Rất tiếc câu hỏi của ông Nguyễn Hùng, phóng viên BBC rất cụ thể nhưng câu trả lời của GSTS Nguyễn Mạnh Hùng mơ hồ. Có thể vì vấn đề Biển Đông mà Chính phủ Mỹ muốn đặt điều kiện với Việt Nam như Mỹ đã làm với những “đồng minh” của Mỹ trong quá khứ"
- VỚI NHẬT BẢN: Mỹ đã yêu cầu Nhật ký thỏa ước Liên Minh Quân Sự, sau khi Nhật đầu hàng Mỹ vì hai trái bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagazaki 8-1945. Để bảo vệ Nhật bằng quân sự hữu hiệu theo tinh thần của hiệp ước, Mỹ được quyền đóng quân trên đảo Okinawa của Nhật trong suốt hơn 60 năm qua…cho đến hôm nay.
- PHILIPPINES: Năm 1951, với đồng minh Philippines, Mỹ cũng yêu cầu ký Hiệp Ước Hổ Tương Phòng Thủ vào năm 1951, để Mỹ có thể bảo vệ Philippines trong trường hợp xứ này bị tấn công. Để hiệp ước hỗ tương phòng thủ có hiệu năng và để thể hiện tinh thần đồng minh với Mỹ, Mỹ ‘được quyền’ sử dụng Hải cảng Subic Bay.
Trong thực tế lịch sử bang giao, Thủy Quân Lục Chiến-TQLC- Mỹ đổ bộ và chiếm đóng đảo Okinawa của Nhật cũng như Hải quân của Mỹ đã sử đụng cảng Subic Bay của Philippines, trước khi Mỹ ký thỏa ước liên minh quân sự với hai quốc gia này.
Tại buổi họp An NInh Nhật Mỹ hôm 17-6 tại Washington, vì tình hình Biển Đông và biển Hoa Đông căng thẳng do TQ gây nên, Nhật đã đồng ý lùi lại ngày di dời căn cứ TQLC Mỹ ra khỏi Okinawa sau năm 2014 (trước đó Mỹ đã thỏa thuận sẽ phải di dời toàn bô lực lượng TQLC của Mỹ ra khỏi Okinawa vào năm 2014). Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton khẳng định tại Washington hôm 24-6-11: Hoa kỳ sẵn sàng vũ trang hiện đại cho Philippines để đối phó với hành động gây hấn của Trung Quốc trên biển. Liền sau đó, Tổng thống Philippines Banigno Aquino cho hay là Chính phủ Philippines sẽ chi nhiều trăm triệu USD mua tàu bè và quân cụ của Mỹ để hiện đại hóa Hải quân. Như vậy, những gì Hoa kỳ tích cực hành xử vì vấn đề Biển Đông đều nhầm c mục đích thủ lợi và nâng cấp vai trò của Mỹ tại Biển Đông. Đó là lẽ dĩ nhiên. Chúng ta cũng vậy thôi.
Hãy có cái nhìn thật gần hơn nữa những thỏa hiệp Liên Minh Quân Sự giữa Mỹ và Nhật và thỏa hiệp Hỗ Tương Phòng Thủ giữa Mỹ và Philippines: Trong thời khoảng có những tranh chấp ‘nóng’ về chùm đảo Điều Ngư- Shenkaku-ở Đông Hải giữa TQ và Nhật và những va chạm thật sự đã gần như ‘nổ’ ra giữa Philippines và TQ ở quần đảo Trường sa, Mỹ đã thể hiện tinh thần của hai thỏa ước trên như thế nào" Như chúng ta thấy Mỹ chỉ hô hào kêu gọi TQ. Nhật và Philippines: Mọi tranh chấp quyền lợi ở Biển Đông hay Đông Hải phải thông qua bằng thương nghị hoà đàm- Tránh mọi can thiệp bằng vũ lực chiến tranh. Ngay chính bản thân Mỹ, ngày 9-Mar-2009. tàu USS IMPECCABLE thăm dò đáy biển của Mỹ bị 5 tàu chiến TQ vây hãm quấy phá cách bờ biển Hải nam 125km với những thái độ khiêu khích thô bỉ xấc xược của lính Hải quân TQ. Mỹ vẫn làm ngơ, cố tình đấu dịu, tránh đối đầu bằng vũ khí chiến tranh trong mọi trường hợp, trong mọi cách gây hấn từ phía TQ. Thỏa ước nào hơn được tình Đồng minh xương máu lâu đời giữa Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa" Ấy thế Mao Trạch Đông đã xua quân đánh chiếm Hoàng sa của ta vào năm 1974 ngay trước mũi của Hạm Đội VII với sư quay lưng lại, nếu không muốn nói là đồng lõa của Richard Nixon, Tổng thống đương nhiệm của Mỹ vào thời điểm đó.
Vấn đề mâu thuẫn ở đây là cả thế giới ai cũng biết: Hơn nửa thế kỷ qua và tận hôm nay Mỹ vẫn là người lãnh đạo thế giới. Nhất là Hải quân. Trong khi cả nhân loại có 20 Tàu Sân Bay đang vận hành, trong số đó Mỹ chiếm 11 chiếc. Hầu hết TSB của Mỹ thuộc thế hệ Nimitz, có trọng tải trên 100,000 ton-gấp đôi, ba, bốn, năm…lần hơn các TSB của các quốc gia khác. Tàu Sân Bay của Mỹ phần nhiều chạy bằng năng lượng hạt nhân. Hạm đội TSB của Mỹ chế ngự trên khắp 4 đại dương. Nhưng tại sao Mỹ có một thái độ khiêm cung khó hiểu như vậy" Những ràng buộc nào hay viễn kiến nào của Mỹ trong tương lai xa, đã bắt buộc Mỹ phải giử một thái độ như vậy" Là người Việt Nam, ta phải tìm hiểu vấn đề này thật cặn kẻ vì trong việc TQ xâm lăng, chiếm cả một vùng rộng lớn của Biển Đông 1,7 triệu km2 trong đó có hơn 700,000km2 biển của ta.
- Chúng ta không một ai có thể quên được cuộc thương nghị giữa TQ và Mỹ tại Nhân Dân Đại Sảnh-Bắc kinh hôm 21-2-1972. Trong cuộc thương lượng này Việt Nam được coi như một món hàng mặc cả giữa Mỹ và TQ. Theo Lý chí Tuy (Cuộc Đời Bí Mật Của Mao Trach Đông-trang 637) sau khi mọi thỏa thuận được ký kết với Mỹ, “Mao Trach Đông có nói với Nixon là họ Mao mong muốn Nixon hiểu rằng TQ vẫn sẽ duy trì việc tuyên truyền đã kích Hoa kỳ và họ Mao cũng mong muốn Hoa kỳ tiếp tục chỉ trích TQ như bình thường. Vì dân chúng và thế giới đã quen như vậy rồi, muốn thay đổi cũng cần có thời gian”. Do đó việc TQ, hai năm sau đó, xua quân đánh chiếm Hoàng sa của ta 1974 phải được hiểu như sự đồng lõa hơn thế nữa là sự chấp thuận của Mỹ tại cuộc thương lượng Mỹ-Trung tại Bắc kinh từ năm 1972 mặc dầu trong thời khoảng đó Washington và Bắc kinh vẫn thường xuyên đã kích nhau dữ dội.
- Năm 1998, Bill Clinton, đương nhiệm Tổng thống Hoa kỳ vào thời điểm ấy lãnh đạo một phái đoàn hơn cả ngàn người gồm các nhà lãnh đạo đầu tư, các chuyên gia kinh tế, các phóng viên báo chí Hoa kỳ đến Bắc kinh ký thỏa ước Chính trị, Quân sự và Kinh tế với Giang Trạch Dân, lãnh đạo của TQ. Nội dung của thỏa ước này đến nay vẫn chưa được hoàn toàn công khai. Tuy nhiên, một tuyên bố statement ở phần cuối của thỏa ước này được công bố ngay sau khi thỏa vừa ký kết: “Nếu trong tương lai nếu có xảy ra xung đột quyền lợi giữa TQ và Hoa Kỳ, những xung đột phải được hai chính phủ TQ và Hoa kỳ giải quyết bằng đường lối hòa bình, đối thoại và nhất quyết tránh mọi can thiệp bằng vũ trang và chiến tranh”
Quyết định này đã được thử thách nhiều lần trong quá khứ:
1- Trong cuộc chiến KOSOVO-1999, Không lực Hoa kỳ “bắn tên lửa nhầm” toà đại sứ TQ tại Yougoslavia, gây thiệt hại nặng nề
2- Tháng 4-2001, một phi công TQ bị tử thương khi bay lên nghinh chiến với máy bay Hoa kỳ thám thính không phận Hải nam của TQ
Cả hai lần này TQ tự khắc phục và giải quyết trong tinh thần nhương bộ, hòa bình
3- Ngày 9-3-2009, 5 tàu chiến TQ quấy rối và khiêu khích chiếc USS IMPECCABLE của Mỹ cách đảo Hải nam 75 dậm (125km) như vừa kể ở trên.
4- Ngày 11-6-2009, một tiềm thủy đỉnh TQ vô tình đụng phải máy dò Sonar của chiếc John McCain của Mỹ cách căn cứ Subic Bay 144 dậm.
Cả hai lần sau này, cũng như TQ, Mỹ tỏ ra ‘thông cảm’ trước việc làm ‘vô ý thức’ này của hải quân TQ.
Tất cả những vụ việc vừa tường thuật ở trên buộc chúng ta suy nghĩ: Rất có thể những biến động xảy ra tại Biển Đông trong những năm qua cũng chỉ là sự dàng dựng của hai thế lực: Mỹ và TQ để chia nhau thủ lợi và chi phối quản lý Biển Đông" Hy vọng, đây chỉ là một suy diễn chủ quan. Nhưng dù sao Asean và nhất là Việt Nam phải ra quyết định phủ quyết tất cả những ký kết giữa Mỹ và TQ về Biển Đông trong những buổi họp song phương giữa Mỹ và TQ không có sự tham dự của Asean và Việt Nam. Họ không có quyền thương lượng tay đôi chia chat với nhau Biển Đông. Nhất là Mỹ, không có chủ quyền trên Biển Đông. Kurt Campbell, Trợ lý ngoại trưởng Mỹ phụ trách Đông Á-Thái Bình Dương đã phát biểu hôm 25-6-2011, trước buổi thương nghị song phương giũa Mỹ và TQ tại Hawaii: “Chúng tôi đã rất rõ ràng rằng Hoa kỳ không có lập trường nào trong các vấn đề chủ quyền ở Biển Đông…”. Nghĩa là Trợ lý Ngoại giao Mỹ, Kurt Campbell xác nhận Hoa kỳ không có chủ quyền trên Biển Đông ngoài việc duy trì tự do hàng hải, tự do thương mại. Nhưng, liền sau đó Kurt Campbell cũng thực thà bộc lộ: “Hy vọng vấn đề tranh chấp ở Biển Đông sẽ được nêu ra trong cuộc gặp gỡ song phương Mỹ Trung tại Honolulu hôm thứ bảy 25-6-2011 như một phần nội dung của đối thoại chiến lược kinh tế giữa hai quốc gia..”. Đối thoại tranh chấp Biển Đông giữa Mỹ và TQ cũng là một bộ phận nằm trong đối thoại chiến http://www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2011/06/110625_usa_china_sea.shtml lược kinh tế giữa Mỹ và TQ. Nếu thật sự là như vậy, e rằng TQ và Mỹ trong trường hợp này đã vượt quá giới hạn Công Ước Về Biển của LHQ-1982. Họ đâu có quyền họp song phương với nhau để âm thầm chia chát nguồn tài nguyên và các quyền lợi khác ở Biển Đông. Trong lúc đó Việt Nam các quốc gia Asean và Mỹ luôn luôn kêu gọi TQ phải chấp nhận đàm phán đa phương trong vấn đề tranh chấp Biển Đông.
Đó là những phân tách rốt rát, cùng-kỳ-chi-lý, để chúng ta có thể nhìn thấy phản diện của quan hệ Mỹ, TQ và các nước Asean nhất là VIệt Nam về Biển Đông. Biết để đề phòng, ngăn ngừa những tai nạn đáng tíếc có thể xảy ra trong quan hệ Mỹ Việt trong tương lai, chứ không có nghĩa là Việt Nam phải lánh xa Hoa kỳ. Vì trong chiến lược tranh chấp Biển Đông với TQ, Việt Nam chọn Hoa kỳ như một đối tác đáng tin cậy là một sự chọn lựa thích đáng nhất, vì chỉ có Hoa kỳ mới có thể chủ trị, chế ngự con ‘ngoáo ộp TQ’ tại Biển Đông. Nhưng liệu Hoa kỳ có chấp nhận một cơ chế có tính cách ràng buộc pháp lý như trình bày ở phầnI: “Nếu nước nào tấn công tàu Mỹ tại Biển Đông thì Asean và Việt Nam sẽ coi như nước đó tấn công tàu của các nước Asean và Việt Nam. Nếu nước nào tấn công tàu Asean hay tàu Việt Nam tại Biển Đông thì Mỹ sẽ coi như nước đó tấn công tàu Mỹ ”. Liệu cơ chế có tính ràng buộc pháp lý này có đủ thỏa mãn điều kiện mà Mỹ đang đòi hỏi Việt Nam không"
Những phân tích trên chỉ là những phản biện hay hơn thế nữa chỉ là những giả thiết đáp ứng với những đề xuất của GSTS Nguyễn Mạnh Hùng (nếu có) về việc Chính phủ Mỹ đòi hỏi Việt Nam những điều kiện nào đó. Trong thực tế của tình hình, năm 2009 Tổng thống Hoa kỳ, Barack Obama, đã quyết tâm quay trở lại Châu Á Thái Binh Dương xuyên qua hải trình vùng Biển Đông, Biển Hoa Đông, Hoàng hải và Đông Bắc hải bao vây TQ. Hơn 60% lực lượng của Hoa Kỳ đã di dời sang Châu Á Thài Bình Dương từ năm 2010. Con đường theo hướng xuyên qua Jérusalem-Baghda-Kabul không còn giá trị với Mỹ trong việc bảo vệ và phát triển vai trò lãnh đạo của Mỹ trên thế giới nữa. Hy vọng với chính sách đổi hướng bảo vệ và phát triển quyền lực của Mỹ và nhất là sau khi chọn Việt Nam như một một đối tác đáng tin cậy hàng đầu trong chiến lược trở lại Châu Á TBD, Mỹ cũng được Việt Nam chọn như là một đối tác đáng tin cậy hàng đầu của Việt Nam trong chiến lược chống lại tham vọng bành trướng của TQ ở Biển Đông. Tại cột mốc lịch sử này, hy vọng quan hệ Việt Mỹ tiến triển nhanh, sẽ được thăng hoa và hoá giải không chỉ giới hạn trong lãnh vực kinh tế, thương mại và mở rộng sang cả địa hạt Chính trị, An ninh và Quốc phòng.
Trước mắt chúng ta hãy mạnh dạn tin tường vào mối quan hệ Việt Mỹ và lạc quan theo dõi cuộc diễn tập hỗn hợp Hải quân Việt Mỹ tại Biển Đông vào ngày 15-7-2011- Và những cuộc diễn tập liên tục tiếp theo sau đó như hai chính phủ Việt Mỹ đã lên kế hoạch. Những cuộc diễn tâp đó sẽ được coi như là những thao tác hỗn hợp hải quân Việt Mỹ thường xuyên diễn ra hàng năm…/.
Đào Như
Viết xong tại Oak park-Ill. USA- July-3-11