Trưng Nữ Vương (40-43): Anh Thư Khởi Nghĩa Mở Đường
: Cô Cung Hoàng Kim, Hoa Hậu Toàn-Quốc Hoa Kỳ 2011 (America's US Miss 2011).
: Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương và Hai Bà Trưng, được tổ chức tại trụ sở Cộng Đồng Người Việt Dallas, TX, USA, vào Chủ Nhật, ngày 3.4.2011.
CUNG HOÀNG KIM
Vào đầu thế kỷ thứ I, (theo Ngô Thời Sĩ), nước Việt xưa của ta chỉ gồm 3 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, và Nhật Nam, lúc đó đang bị đô hộ dưới thời nhà Đông Hán (25-220) Sau Tây Lịch (STL) của Tầu. Theo Sử Việt, quan Thái Thú người Tầu của quận Giao Chỉ là Tô Định, vô cùng bạo ngược, với dân Việt bị trị, làm lắm điều tàn ác, người người oán hận.
Trưng Trắc sinh năm 14 (Sau Tây Lịch), quê ở Mê Linh (Phúc Yên ngày nay). Cha là Trưng Định, làm quan Lạc Tướng ở huyện Mê Linh. Mẹ là bà Man Thiên, tức Trần Thị Đoan, dòng dõi Hùng Vương.
Đặng Thi Sách, con trai ông Đặng Tập ở Chu Diên, cũng thuộc dòng dõi Lạc Tướng, người khôi ngô, giỏi võ nghệ, có tinh thần yêu nước. Được tin ở Mê Linh có hai nữ-lưu có ý chí kiên-cường, nên tìm đến kết thân. Thi Sách và Trưng Trắc cùng chung chí hướng, tài giỏi võ nghệ, tâm đầu ý hợp, nên kết nghĩa phu thê.
Năm 39, Tô Định giết Thi Sách vì ông khởi nghĩa chống Tầu. Vừa giận thù nhà, vừa hận nợ nước, nên năm 40 (Canh Tý), Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị, chiêu binh mãi mã, phất cờ khởi nghĩa, đánh quân nhà Hán. Sau khi làm lễ để tang chồng, Trưng Trắc thảo một Tờ Hịch, kể tội ác của quân Hán Tầu, và kêu gọi dân chúng khắp nơi đứng dậy, chống giặc thù.
Dưới bóng cờ nương tử, nghĩa binh Mê Linh phá quận cai trị Giao Chỉ của nhà Hán, ngày càng có thêm nhiều đoàn quân Việt, từ các nơi đổ về dưới bóng cờ khởi nghĩa, nhằm tiêu diệt quân xâm lăng. Chẳng bao lâu, quân của Hai Bà Trưng đã đánh hạ được tất cả 65 thành, Tô Định khiếp sợ, chạy về Nam Hải. Tin thắng trận bay đi, cư dân các quận Hợp Phố (Quảng Đông ngày nay), Cửu Chân, và Nhật Nam (Bắc Việt và Bắc Trung Việt ngày nay) hưởng ứng rất đông, theo tiếng gọi của hai vị nữ anh-thư. Thanh thế của lực lượng khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo: thật lừng lẫy !!!
Trưng Trắc lên ngôi vua, tự xưng là Trưng Nữ Vương, đóng đô ở quê nhà là Mê Linh, chấm dứt 150 năm Bắc Thuộc đầu tiên của quân xâm lăng Tầu, từ Trước Tây Lịch (TTL) đến Sau Tây Lịch (STL) tức là (111TTL - 40 STL). Trưng Trắc lên ngôi vua, phong cho Trưng Nhị làm Bình Khôi Tướng Quân, nắm giữ toàn thể quân lực.
Mã Viện (14 TTL - 49 STL) đã về hưu trí, nhưng vua nhà Hán phải mời Mã Viện ra cầm quân trở lại, đủ thấy sức kháng-cự của Hai Bà Trưng rất mạnh mẽ, làm cho nhà Hán phải lo ngại, gởi một danh tướng Tầu đi đánh dẹp.
Tháng Chạp, năm 41, vua Hán Quang Võ đã phong Mã Viện làm Phục Ba Tướng Quân, mang 20 vạn quân (200.000 = 2 trăm ngàn quân) sang nước Việt, đánh Hai Bà. Trận kịch-chiến dữ-dội đầu tiên giữa Đại Quân (quân đội Tầu, vũ khí tốt, được luyện-tập giỏi hằng ngày) của Mã Viện, với Dân Binh (dân thường, không đủ vũ khí, thường trốn lánh trong rừng núi khi tập luyện) do Trưng Nữ Vương thống lĩnh, đã diễn ra ở Lăng Bạc. Quân Mã Viện trên các triền đất cao, giữa vùng Lăng Bạc bị Trưng Nữ Vương đem quân tới chận đánh. Dù thắng lợi, nhưng quân sĩ Việt đã hy sinh quá nhiều. Trước tổn thất lớn đó, Trưng Nữ Vương thu quân về, giữ Cấm Khê.
Mã Viện về Tầu, xin tăng cường thêm quân, rồi tiếp tục kéo binh qua Giao Chỉ, xâm lược. Qua bốn trận thư-hùng với quân địch, hàng vạn quân dân Việt đã bị giết và bị bắt. Nhưng vì không chịu đầu hàng, muốn chống trả với quân giặc đến cùng, Trưng Nữ Vương đã bỏ Cấm Khê, lui quân về đến Hát Giang. Nơi đây, vì quân ít (chỉ còn 10.000 quân), thế cô và cùng đường, hai vị anh thư không muốn rơi vào tay quân địch, bèn gieo mình xuống sông Hát tự vận, để bảo toàn danh tiết. Đó là ngày Mùng 6 Tháng 2, năm Quý Mão (năm 43). Theo Nam Sử, bà Trưng Trắc hưởng dương 29 tuổi và Trưng Nhị hưởng dương 26 tuổi.
Hai Bà Trưng đã được sử sách Việt Nam và thế giới ghi lại, là hai người Việt địa phương đầu tiên, đặc biệt là phụ nữ, đã can đảm đứng lên chiêu binh, chống lại quân Tầu ngoại xâm, nói lên ý chí độc-lập đã có từ ngàn xưa của người Việt, giành lại độc lập cho dân-tộc trong 3 năm, nhằm tạo-dựng một quốc gia riêng biệt, thoát khỏi ách thống-trị lâu đời của giặc Tầu. Đó là sự hy sinh cao cả của hai bậc nữ lưu, mà dân tộc Việt đời đời ghi nhớ và tri ân.
Về sau, vua Tự Đức nhà Nguyễn (trị vì 1847-1883) đã ngự phê: "Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, vậy mà đã quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn-động cả triều đình nhà Hán. Dẫu rằng thế lực cô đơn, không được thời thuận lợi, nhưng cũng đủ làm phấn-khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kìa những bọn nam tử, lại chịu khép nép làm tôi tớ cho người; nhất là vì lợi-danh mà phản-bội đất nước, mặt dầy - đáng thẹn lắm ư!"
So sánh Lịch Sử Bảo Vệ Đất Nước của Hai Bà Trưng thời xưa và của đảng CS cùng chính quyền VC thời nay, chúng ta thấy không những bọn cầm quyền VC không giữ được bờ cõi, mà còn bán các phần đất Việt cho Tầu Cộng (TC), để lấy tiền làm giàu hoặc trao đổi quyền lợi và địa vị với TC, như: Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, vài phần lãnh hải ở các bờ biển Đà Nẵng, Côn Đảo... Chúng còn cho phép Tầu Cộng vào sâu hơn trong đất Việt, ở Tây Nguyên (phía Tây của các vùng cao nguyên), khai thác quặng bauxite, gây ô nhiễm môi trường và bệnh tật cho cư dân Việt, ở xung quanh khu vực đó. Người Việt trong nước lên tiếng thì bị công an VC bịt miệng, đánh đập, bắt bỏ tù. Nên người Việt hải ngoại ở Bắc Cali (ngày 30.9.2010) và Nam Cali (ngày 5.2.2011), cùng nhiều nơi khác, phải lên tiếng thay cho đồng bào bị áp bức, trong nước, bằng những cuộc Biểu Tình phản đối Trung Cộng (TC) xâm lăng lãnh thổ Việt Nam.
Hèn hơn nữa, khi tầu lớn của Trung Cộng tấn công các thuyền chài nhỏ của ngư dân Việt ở các bãi biển VN: đã uy hiếp, đánh đập, bắt trói và quỳ trong tầu TC, và bắt ký tên vào Giấy Nhận Tội đã "xâm phạm phần biển của TC", thì bọn cầm quyền VC câm như hến!!! VC còn bắt dân ta nói, là đã bị "tầu Lạ" tấn công, chứ không được nêu tên đích-danh kẻ thù là "tầu Trung Cộng". Do đó, bây giờ dân ta ở VN có thêm một câu tục ngữ về VC: "Hèn với giặc, ác với dân."
Điều cuối cùng CHK xin nhắc là: Hai Bà Trưng đã khởi nghĩa chống Tầu vào năm 40 Dương Lịch (cách đây 1971 năm) với một Lá Cờ Vàng. Như vậy, Lá Cờ Vàng chính nghĩa đã cùng sống với dân tộc Việt gần hai ngàn năm, và chắc chắn sẽ là lá cờ Truyền Thống và Tự Do của Việt Nam mãi mãi.
Dallas, TX, ngày 27.3.2011
Hoa Hậu Toàn-Quốc Hoa Kỳ 2011 (America's US Miss 2011), Cô CUNG HOÀNG KIM viết lại, dựa vào sưu tầm riêng, và sự biên soạn từ internet của hai tác giả Vương Trùng Dương (không ghi thời gian) và Trần Gia Phụng (March 24, 2007), cho Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương và Hai Bà Trưng, được tổ chức tại trụ sở Cộng Đồng Người Việt Dallas, TX, USA, vào Chủ Nhật, ngày 3.4.2011.