Hôm nay,  

"Tháng Tư Đen" Hay Là Hai Năm Cuối Một Cuộc Chiến Tàn Khốc

09/07/201400:26:00(Xem: 12394)

"THÁNG TƯ ĐEN"

HAY LÀ HAI NĂM CUỐI MỘT CUỘC CHIẾN TÀN KHỐC

Tâm Việt

Đa phần người Việt hải-ngoại là những người đã rời Việt-nam, đã ra đi sau ngày 30 tháng Tư năm 1975. Với sự cưỡng-chiếm miền Nam bởi người Cộng-sản, lịch-sử đã sang trang để đem lại những ngày đen tối không có tương-lai, những ngày mà sau này đến báo lề phải ở trong nước khi hồi-tưởng cũng phải gọi là "những đêm dài bao cấp." Vậy mà thử hỏi, bao nhiêu người trong chúng ta đã nhớ, đã biết rõ chuyện gì đã xảy ra để rồi chúng ta phải gặp chuyện "sẩy đàn tan nghé" như ngày hôm nay?

Có lẽ vì cái thảm-kịch nó lớn quá, tới mức không ai trong chúng ta có thể mường tượng nổi. Cũng tựa như một trận sóng thần nó ập đến, nhà cửa bỗng đổ nát tan hoang, cây tróc rễ, tàu bè dưới biển bị bốc lên cao rồi nằm trên lưng đồi hay ngọn núi, như một trận cuồng-phong đem thủy-quái lên cao nghênh chiến với quân nhà trời.

Thành thử bốn mươi năm qua, nhiều người trong chúng ta vẫn còn đi tìm câu giải thích cho cái hiện-tượng đó, hiện-tượng mà có người mô-tả, theo lời kể của nghệ-sĩ Trần Văn Trạch, "đến cái cột đèn mà nó biết đi thì nó cũng đi nốt."
blank

Bản dịch THÁNG TƯ ĐEN

Thì đây, cách đây không lâu, Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ đã cho tung ra bản dịch cuốn Black April của soạn-giả người Mỹ, một nhà quân-sử tên George Veith mà giữa bạn bè thường được gọi thân mật là "Jay." Có điều lạ là "Jay" không hề là một cựu-chiến-binh ở Việt-nam. Anh còn trẻ quá để có thể tham-gia vào trong cuộc chiến tàn khốc đó cách đây gần 50 năm. Nhưng ám-ảnh của anh về cuộc chiến xa xôi, cách nước Mỹ nửa vòng trái đất vẫn không để cho anh yên. Anh thắc mắc, anh tìm tòi, anh đào sâu, anh đi vào thư-viện, đi vào văn-khố, đi tìm những chứng-nhân để đào cho đến đáy của vấn-đề thì may ra, anh mới có thể tìm ra được sự thật!

Và cuối cùng anh đã sản xuất được ra một cuốn sách mà Đại-tá hồi hưu Lewis Sorley, một tác-giả nổi tiếng với 5 cuốn sách về chiến-tranh VN, đã phải mô-tả là "một cuốn sách được nghiên cứu tuyệt vời về sự phòng thủ anh dũng và hữu hiệu của miền Nam Việt Nam sau khi quân-lực Mỹ đã rút lui cho đến khi, bị hủy hoại bởi sự thất hứa của Hoa Kỳ không tiếp-tục hỗ-trợ mạnh mẽ về tài vật cũng như về tài chính, miền Nam đã bị tràn ngập bởi những người Cộng-sản được các quốc gia đàn anh đỡ đầu cho tăng vọt phần viện trợ. Một cuốn sách trả đáp hữu hiệu đối với những ai đã gian dối mô tả quân lực VNCH như là những người không muốn hay không có khả năng tranh đấu cho tự do của họ, và đây cũng là một chiếc nón ngả chào sự can trường của họ trong lúc phải tranh đấu chống lại những rủi ro không thể vượt qua nổi."

Đọc được cuốn sách này, một cựu-phiên-dịch-viên của MACV đã cảm-động tới mức ông đi tìm tác-giả và ngỏ ý muốn được dịch sang tiếng Việt ngõ hầu nhiều đồng-bào của ông có thể đến với cuốn sách. Ông Nguyễn Ngọc Anh ở Arizona sau đó đã bỏ toàn-thời ra dịch cuốn sách trong một thời-gian kỷ-lục. Và Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ lại được cái duyên là cả tác-giả lẫn dịch-giả đều đồng-ý trao lại cho trách-nhiệm duyệt bản và in cuốn sách nhằm đưa vào thị-trường sách tiếng Việt trên quy-mô rộng lớn.
.

Mấy đặc-điểm của cuốn THÁNG TƯ ĐEN

Được viết ra gần 40 năm sau cuộc chiến, cuốn Tháng Tư Đen của "Jay" Veith đã có cái lợi là nhiều văn-khố đã được mở ra cho các học-giả đến nghiên cứu. Nhiều tài-liệu mật sau 30 năm đã được giải mật, như luật của Hoa-kỳ đòi hỏi. Thành thử nhiều tin tức mà trước kia, trong thời-kỳ chiến-tranh chỉ đồn đoán thì giờ đây ta đã có thể tìm ra nguồn gốc của những quyết-định đó. "Jay" đã chăm chỉ tận-dụng những nguồn thông tin này.

Song nếu nhiều, đa-phần các học-giả hay sử-gia Mỹ chỉ biết tìm đến các tài-liệu viết bằng tiếng Anh thì "Jay" đã làm một chuyện phi-thường. Anh tìm về rất nhiều nguồn tư-liệu tiếng Việt mặc dù chính anh không biết nhiều tiếng Việt. Anh đã có nơi một người bạn, Merle Pribbenow, một cột dựa chính-xác và đáng tin cậy để nhờ đọc hàng trăm, hàng nghìn tài-liệu của đối-phương, tức đến từ các tác-giả hay nguồn tin Bắc-Việt hay Việt-Cộng miền Nam. Merle, chẳng hạn, là người đã dịch bộ sử chính của miền Bắc về chiến-tranh mà họ gọi là "chống Mỹ cứu nước." Merle còn khai thác hầu hết những gì các tướng lãnh Bắc-Việt đã viết về cuộc chiến đến mức "Jay" có thể xem anh như đồng-tác-giả.

Không ngưng ở đó, "Jay" lại đi tìm các bạn Việt-nam để có thể tiếp cận các tướng tá ở miền Nam, thuộc quân-lực VNCH để phỏng vấn vào chi-tiết. Anh cũng lại nhờ Merle đọc hết những hồi-ký của các tướng lãnh hay các bài báo rải rác trong hàng trăm đặc-san hay báo của quân-đội ở hải-ngoại kể lại các trận chiến.

Nhờ vậy nên cuốn sách rất công bằng, để cho cả ba bên trình bầy cuộc chiến "từ Hiệp-định Paris đến ngày mất miền Nam," tức hai năm cuối tính từ tháng 1/1973 đến tháng 4/1975. Nghĩa là cuốn sách khác một trời một vực với đa-số sách viết về chiến-tranh Việt-nam, nhiều khi chỉ đưa ra được cái nhìn từ một phía--hoặc của Mỹ, hoặc của Bắc-Việt hoặc của miền Nam, ít khi đan kết được câu chuyện nhìn từ cả ba phía.

Mà lạ thay, khi viết đầy đủ nhìn từ ba phía, tức là đúng với thực-tế của cuộc chiến dưới đất thì người ta lại thấy một sự thật thần-kỳ. Đó là chiến đấu trong những điều kiện vô cùng eo hẹp nếu không muốn nói là dã-man của hai năm cuối cuộc chiến, sau khi bị đồng-minh chính là Mỹ bỏ rơi cũng như mặc dù lãnh-đạo miền Nam đã có những quyết-định không mấy khôn ngoan, quân-lực VNCH vẫn đã có những nỗ lực ngoạn mục để chứng tỏ sự "can trường trong chiến bại" như cách nói của Phó-đề-đốc Hồ Văn Kỳ Thoại viết về trận chiến Hoàng-sa chống lại hải-quân Trung-Cộng. Chúng ta đã không chỉ có một trận Hoàng-sa chống ngoại-xâm với 72 anh-hùng của trận chiến đó.

Chiến-đấu trong những điều-kiện bất-cân-xứng do đối-phương được tiếp-tế tận-lực, dồi dào bởi Liên-Xô và Trung-quốc, Quân-lực VNCH đã có những trận chiến để đời mà đến ngay các tướng lãnh Việt-Cộng sau đó cũng phải công-nhận sự chống trả anh-dũng. Đó là những trận như trận Phan-rang, nơi VC đã bị cản trở bước tiến vỡ bờ của họ trong nhiều ngày. Đó là một trận như trận Xuân Lộc mà một sư-đoàn VNCH, sư-đoàn 18 dưới quyền của tướng Lê Minh Đảo, đã kiên cường ngăn chặn được ba sư-đoàn địch. Đó là một trận như trận Tây-ninh nơi thiết-giáp của tướng Trần Quang Khôi đã làm cho địch-quân khốn đốn nhiều ngày. Chưa kể những trận đụng độ nhỏ hơn, có khi chỉ ở một quận như Thủ-thừa, mà về sau đến Lê Đức Thọ cũng phải nói lên lời thán phục.

Tóm lại, người lính VNCH, dù là quân hay là tướng, ngay trong những giờ tuyệt vọng nhất, nhiều khi cũng đã chứng tỏ hết sự hy sinh của mình cho chính-nghĩa để sau này, như năm vị tướng tuẫn tiết và hàng trăm, hàng ngàn sĩ-quan binh lính khác đã chọn cái chết vào giờ chót để nói lên hết lòng thương yêu của mình với quê hương, dân-tộc và gia-đình. Để giờ đây vẫn còn được ngưỡng mộ như một Ngụy Văn Thà hay một Nguyễn Khoa Nam, lưu danh thiên cổ.

Được biết, cuốn Tháng Tư Đen đang được tổ-chức ra mắt ở một số nơi, bắt đầu ngay từ vùng thủ-đô trong những ngày tới với buổi đầu tiên tại Hội Cao Niên vùng Hoa Thịnh Đốn (6131 Willston Drive, Falls Church, vA 22044) vào lúc 3 giờ chiều thứ Bảy, 12 tháng 7, 2014.
.

GHI CHÚ: Sau đây là bích chương của Tháng Tư Đen.

TỔ HỢP XUẤT BÀN MIỀN ĐÔNG HOA KỲ HÂN HẠNH GIỚI THIỆU CUỐN SÁCH MỚI:

THÁNG TƯ ĐEN
Nguyên-tác: Black April: The Fall of South Vietnam, 1973-1975
Tác giả: George J. Veith
Dịch giả: Nguyễn Ngọc Anh

.

Đầu thập niên 1970, để phá vỡ thế bao vây của Cộng-sản, Mỹ đã đi đêm với Trung-Cộng, kết-quả là miền Nam bị bỏ rơi và CS Bắc-Việt chiến-thắng (với sự yểm-trợ dồi dào áp-đảo của Nga-Hoa). Người dân Mỹ đã đền bù phần nào sự phản-bội này của các chính-khách Mỹ bằng cách mở lòng đón nhận chúng ta, giúp chúng ta xây dựng nên một cộng-đồng hải-ngoại vững mạnh như ngày hôm nay. Các sử-gia Mỹ dần dần cũng đã trông ra sự thật về cuộc chiến và đã có những đóng góp ngày càng giá-trị để đem lại công-bằng cho người dân, quân-đội và xã-hội miền Nam--một sự đánh giá mà giờ đây ngay ở trong nước người ta cũng nhìn ra.

.

Tác-giả George J. Veith đã nghiên cứu cặn kẽ và trong chi-tiết mọi tài-liệu xuất phát từ các văn-khố Mỹ, từ các báo-cáo quân-sự, chính-trị đương-thời của phía Mỹ cũng như các sách vở, tài-liệu ngày càng phong phú do cả hai phe Việt-nam, CS Bắc-Việt và Việt-nam Cộng-hòa về giai-đoạn từ Hiệp-định Paris tới ngày 30/4/1975.

.

Dựa vào các nguồn tin đó, cộng thêm các cuộc phỏng vấn nhiều sĩ-quan Quân-lực VNCH đã dự trận, ông đã vẽ lại được thật rõ ràng và đầy đủ các trận chiến từ trận Ban-mê-thuột đến trận đánh cuối cùng ở Sài-gòn, để khám phá ra rằng trong nhiều trường-hợp người lính VNCH đã chiến-đấu rất anh-dũng trong những điều-kiện vừa thiếu thốn vừa khó khăn tột độ.

.

Vậy mà không ít nơi, quân-đội đó đã có những chiến-thắng đáng ghi lại trong quân-sử (như trận Xuân Lộc), làm vinh-dự cho một quân-lực mà nhiều lúc đã bị chê bai, khinh miệt một cách vô lối, bất công--chỉ vì người ta tin theo các nguồn tin CS hay các báo chí thiên tả, phản chiến hoàn-toàn không có cơ-sở. Đây là một việc làm trả lại sự thực cho lịch-sử, trong một bản dịch lưu loát và chính-xác của dịch-giả Nguyễn Ngọc Anh.

.

Một tác-phẩm quân-sử vào bậc thượng-thặng!

700 trang khổ lớn (6" x 9"), bản-đồ và 8 trang hình - Ấn-phí: $30 + $4 cước phí

ĐỊA CHỈ ĐẶT MUA SÁCH:

TỔ HỢP XUẤT BẢN MIỀN ĐÔNG HOA KỲ
2607 MILITARY RD.
ARLINGTON, VA 22207
Tel.: (703) 525 – 4538 – Email canhnam@dc.net
Ngân phiều xin đề cho “TO HOP CANH NAM”.

.
,

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công...
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, cần phải phân loại, xác định rõ ràng các loại “địch” để tìm cách đối phó hoặc vận động gây cảm tình làm đồng minh, tùy loại địch. Mọi người thường nói, “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” là vậy.
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.