Hôm nay,  

Dân Tộc Bản Địa Việt Nam: Một Vấn Đề Cần Được Nhìn Nhận

20/09/201300:00:00(Xem: 10416)
Theo tinh thần bản 'Tuyên ngôn về Quyền của các Dân tộc Bản địa' do Liên Hiệp Quốc vận động thành hình và đã được 150 quốc gia (kể cả Việt Nam) chấp thuận, thì nước ta phải có ít nhất là 30 dân tộc bản địa. Qua lăng kính nhân bản, đây là một thực tế lịch sử và chính trị không thể nào nhìn khác hơn. Và do đó, vấn đề hiện nay không còn là « Việt Nam có Dân tộc Bản địa hay không? » mà là Chính phủ Việt Nam phải công nhận sự hiện hữu của các dân tộc bản địa và cần có chính sách tương đồng với khuynh hướng chung của cộng đồng thế giới tiến bộ.

Với thực tế có 54 dân tộc đã và đang sống trên lãnh thổ từ Bắc chí Nam, Việt Nam mặc nhiên là một quốc gia đa chủng tộc và đa văn hóa. Dù người Kinh chiếm đa số (86%) dân số song cộng đồng các dân tộc bản địa vẫn luôn đóng một vai trò quan trọng, vì lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã có công lao khai phá, phát triển của nhiều thế hệ dân tộc bản địa. Hơn nữa, Việt Nam sẽ không thể có hòa bình thực sự nếu như chính phủ không nhìn nhận nguồn gốc các dân tộc bản địa, đặc biệt là là tập thể người Tây Nguyên, người Champa và người Khmer-Krom. Các chính sách kỳ thị, ngược đãi chỉ gây ra thêm nhiều mâu thuẫn nguy hại, làm mất uy tín quốc gia và gây cản trở cho tiến trình hòa đồng dân tộc. Vai trò của các cộng đồng người thiểu số cũng có ý nghĩa tương tự.

Từ nhận thức đó, ý nghĩa của cụm từ « Dân tộc Việt Nam » cần phải được hiểu một cách rộng rãi như là sự hoà hợp giữa người Kinh cùng các dân tộc bản địa và sắc tộc thiểu số, chứ không phải chỉ là tập thể người Kinh thuần túy. Một khi quan niệm Dân Tộc Mới được nhìn nhận, tất cả công dân Việt Nam đều là một thành phần chính thức của Dân tộc Việt Nam -- không phân biệt sắc tộc. Có thể nói, ý niệm sắc tộc Kinh, sắc tộc bản địa hay sắc tộc thiểu số chỉ là những từ ngữ nhằm xác định nguồn gốc chủng tộc cho những lãnh vực nghiên cứu chuyên môn, chứ không phải là tiêu chuẩn để phân định giai cấp xã hội, văn hoá, chính trị, kinh tế hay bất cứ quyền lợi nào khác.

Việt Nam là một dạng hợp chủng quốc và đa số người Việt ngày nay là con cháu bao đời của nhiều dòng máu sắc tộc khác nhau. Chữ « Đồng Bào » ngày nay không còn ý nghĩa hạn hẹp của những người cùng một « bọc mẹ trăm con » như truyền thuyết, mà là những thế hệ con người đã cùng chia sẻ vinh nhục, thăng trầm, vui khổ trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam. Nhìn nhận được ý nghĩa này thì tất cả chúng ta -- không phân biệt người Kinh, người bản địa hay thiểu số -- sẽ có thể cảm thông, gắn bó với nhau. Từ đó, những va chạm trong lịch sử sẽ được nhìn một cách trung thực, khách quan hơn; bởi lẽ những đau thương của lịch sử không phải chỉ có các dân tộc bản địa gánh chịu, mà người Kinh cũng đã có vô số tổn hại to lớn bởi chuỗi chiến tranh gây ra bởi các dân tộc bản địa, và nội chiến giữa người Kinh. Nói cách khác, lịch sử đau thương không phải chỉ là sự mâu thuẫn, đàn áp của người Kinh với các dân tộc bản địa, mà còn là giữa người Kinh với người Kinh, và giữa các dân tộc bản địa với nhau.
dan_ban_dia_y_resized
Hình ảnh LHQ về hoạt động dân tộc bản địa.

Hoàn cảnh lịch sử luôn oái oăm và tàn nhẫn trong những giai đoạn có nhiều nghịch cảnh. Nhưng lịch sử là những gì đã qua để chúng ta học hỏi và rút tỉa kinh nghiệm để làm tốt hơn hiện tại và quá khứ. Vấn đề bây giờ là nhìn lại quá khứ với tinh thần nào, giải quyết khó khăn của hiện tại ra sao, và tiến đến tương lai với định hướng gì.

Có phải chăng một trong những điều kiện để phát triển bình đẳng và nhanh chóng trong thời đại hôm nay là cùng hòa đồng trong tinh thần cảm thông, tương kính và xây dựng? Tấm gương «melting pot » của Hiệp chủng quốc Hoa kỳ là một ví dụ điển hình nhất, vì ở nước này, mọi sắc tộc thiểu số và dân da đỏ bản địa đều được quyền bảo tồn lịch sử và văn hoá gốc của họ, song đồng thời cũng được chính phủ khuyến khích để hội nhập một cách bình đẳng vào dòng chính. Nhờ tinh thần đó, Hoa kỳ trở thành một tấm gương tiêu biểu cho tinh thần hòa đồng các dân tộc.

Cho nên chính phủ Việt Nam, dù là với chế độ chính trị nào, cũng đều cần có chính sách phù hợp với nguyện vọng chung của các dân tộc bản địa, tương tự như chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đối với các bộ lạc người Da Đỏ. Sự tôn trọng đó là chủ trương cần có để hóa giải dần đi những cách biệt, mâu thuẫn do hoàn cảnh lịch sử gây ra; đồng thời giúp giữ vững các sắc thái đặc thù của từng sắc tộc, làm phong phú thêm cho lịch sử, văn hoá nước nhà.

Để thể hiện tính nhân bản và văn minh, chính phủ Việt Nam cần có chính sách trợ giúp đặc biệt cho các tập thể đồng bào bản địa và thiểu số để xây dựng sự bình đẳng cần có cho xã hội. Muốn có hòa bình thực sự để mọi sắc tộc đều có thể sống một cách hài hòa, tương kính lẫn nhau, thì mọi hành động kỳ thị hay ngược đãi đồng bào các dân tộc bản địa và sắc tộc thiểu số cần phải được chấm dứt ngay. Trong tinh thần đó, Đảng Vì Dân Việt Nam khẳng định chủ trương tôn trọng nguồn gốc, lịch sử, văn hóa và nguyện vọng chính đáng của các tập thể đồng bào dân tộc bản địa cũng như sắc tộc thiểu số; đồng thời ủng hộ quyền tự quyết và tự quản của các tập thể đồng bào dân tộc bản địa trong khuôn khổ Hiến pháp dân chủ và luật pháp quốc gia ở mai này.

Tóm lại, khi thực tế lịch sử ghi nhận lãnh thổ, dân tộc, lịch sử và văn hóa Việt Nam ngày nay có sự đóng góp không nhỏ từ các dân tộc bản địa, thì việc chính phủ công nhận nguồn gốc các dân tộc bản địa là một vấn đề chính đáng và khẩn thiết. Tạo được sự hòa đồng dân tộc là xây dựng được một nền tảng vững chắc cho Hợp chủng quốc Việt Nam - một tương lai tươi sáng chung cho tất cả người Việt Nam mới.

Viết ngày 14 tháng 09 năm 2013

Nhân cuộc 'Hội Luận về Các Dân Tộc Bản Địa Việt Nam' tại California

Nguyễn Công Bằng
Tổng thư ký Đảng Vì Dân Việt Nam
www.vidan.org

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

(1) Declaration on the Rights of Indigenous Peoples: http://undesadspd.org/IndigenousPeoples/DeclarationontheRightsofIndigenousPeoples.aspx

(2) United Nations Declarationon the Rights of Indigenous Peoples:
http://www.unicef.org/policyanalysis/rights/files/HRBAP_UN_Rights_Indig_Peoples.pdf

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.