Hôm nay,  

Hàng Made in USA, Xu Hướng 2013

29/01/201300:00:00(Xem: 5123)
Tuyên bố sẽ tạo một xưởng chế tạo, lắp ráp máy điện toán iMac ngay tại Mỹ từ Tổng Quản Trị Tim Cook của hãng Apple hồi cuối năm đã được đón nhận nồng nhiệt. Dù quyết định này chỉ tạo ra khoảng 200 việc làm bước đầu, nhưng đây là một bước thay đổi lớn trong đường hướng chiến lược của Apple, hãng đã mang phần lớn các dây chuyền sản xuất của mình sang Á Châu thay vì tạo ra hàng triệu việc làm cho dân Mỹ nếu iPod, iPhone và iMac được sản xuất tại Mỹ. Bước vào năm mới, Walmart cũng tuyên bố sẽ mua thêm khoảng 50 tỉ đô la cho các thương phẩm sản xuất tại Mỹ cũng cho thấy sự thay đổi của các đại tập đoàn. Từng bước, một số hãng cũng đã đưa các dây chuyền sản xuất trở về Mỹ, đồng lúc với những chính sách cắt giảm những miễn giảm thuế xuất cho các hãng mang việc làm ra nước ngoài của TT Obama, có thể xem đây là một tín hiệu đáng mừng cho kinh tế Hoa Kỳ trong năm 2013 tới đây.

Cho đến những năm cuối thập niên 70, hầu hết các hàng tiêu dùng từ kỹ nghệ xe hơi cho đến đồ gia dụng, vật dụng thường ngày đều được sản xuất tại Mỹ. Bất kể là xe hơi hay tã sữa cho trẻ nhỏ. Đây đã là thời kỳ thịnh vượng cho các hãng xưởng lẫn nhân công Hoa Kỳ. Nhưng trong hơn hai thập niên qua, các hãng xưởng đã lần lượt đưa công việc ra nước ngoài, một xu hướng được sử dụng trên các phương tiện truyền thông với cụm từ quen thuộc là "offshore". Không dừng ở đó, các hãng đã lần lượt tiếp nối đưa cả các ngành kỹ thuật cao như điện toán, viễn thông cho đến ngành dịch vụ như tài chính, kế toán, luật pháp, trợ giúp khách hàng... ra nước ngoài, phần lớn là đến các quốc gia Á Châu như Ấn Độ và Hoa Lục, trong mục đích cắt giảm chi phí và gia tăng lợi nhuận. Với giá nhân công thấp, không chịu những ràng buộc cao về các chi phí bảo hiểm, y tế cho nhân công, cũng như thủ lợi qua những lỗ hổng trong chính sách thuế khóa Hoa Kỳ khi đầu tư và hoạt động tại nước ngoài.

Và hậu quả việc này đã tác động mạnh đến kinh tế Hoa Kỳ cho đến đời sống của người nhân công Mỹ, khi hàng chục triệu việc làm đã bị mất vào tay các quốc gia nói trên. Nếu Hoa Lục thủ lợi và phát triển kinh tế với một tốc độ tăng trưởng liên tục để được như hôm nay, thậm chí có cả những hành xử xấc xược của một anh chân đất mới giàu đầy hãnh tiến, thì ngược lại kinh tế Hoa Kỳ đã chựng lại trong hơn 10 năm qua, kể từ sau vụ 911. Người nhân công không còn một sự bảo đảm trong việc làm mà các thế hệ trước được hưởng: họ có thể làm việc trọn đời tại cùng một hãng và về hưu với những quyền lợi và mức lương hưu hậu hĩnh, đủ sống an nhàn khi hưu trí. Một khi các công việc trên dây chuyền sản xuất lần lượt bị dẹp bỏ hay thu hẹp hoạt động, người nhân công đã phải đối diện với mối đe dọa thất nghiệp thường xuyên hoặc giới trẻ đã phải khó khăn hơn trong việc kiếm việc làm. Một số đại công ty lại tỏ ra "tham lam" hay bị áp lực cạnh tranh đã đi theo con đường này, càng gây tệ hại hơn cho nền sản xuất Hoa Kỳ. Công việc làm trong kỹ nghệ sản xuất bị xuống thấp nhất trong vòng bảy thập niên qua.

Nhưng sau hơn hai thập niên ngành sản xuất Mỹ bị tấn công như vậy, trong năm qua đã có những tín hiệu hứa hẹn hơn, khi một số hãng đã từng bước đưa việc làm trở lại Mỹ, hay cam kết sẽ làm vậy, một xu hướng "reshore" đáng mừng. Kỹ nghệ sản xuất đã tái cấu trúc các hoạt động để tự thân nó mang tính cạnh tranh hơn trong nền kinh tế toàn cầu, hiệu quả sản xuất cao hơn, các dây chuyền được tự động hóa ở mức tối ưu và mức lợi nhuận tính theo mỗi nhân công cũng lên cao nhất kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Và một lý do khác là chi phí sản xuất tại nước ngoài đã bắt đầu gia tăng, chi phí vận chuyển tăng cao, mức chênh lệch lương bổng, chi phí giữa Mỹ và nước ngoài đã thu hẹp.

Với chính sách giữ thấp đồng đô la sẽ giúp phần phát triển xuất cảng, cũng như việc kích thích nhu cầu tiêu thụ tại các quốc gia đang phát triển sẽ giúp hãng xưởng Mỹ tái phục hồi, khi hàng hóa "Made in USA" rất hấp dẫn với nước ngoài, kể cả người dân Hoa Lục. Năm 1985, TT Ronald Reagan từng công bố tháng 12 là tháng "Made in USA", và sau gần 30 năm, thương hiệu "Made in USA" vẫn luôn thu hút khách hàng nội địa và nước ngoài. Theo thăm dò của hãng Boston Consulting Group, khoảng 60% người tiêu thụ Mỹ sẵn sàng trả cao hơn để mua các món hàng "Made in USA" này. Một dự án đang tiếp diễn là "Made in USA, Again" cũng cho những thăm dò tích cực như vậy, kể cả khách nội địa và nước ngoài với hàng hoá sản xuất tại Mỹ. Và cũng theo dự án này, tỉ lệ khách tiêu thụ tương tự tại Hoa Lục cũng sẵn sàng trả giá cao hơn các hàng hóa của Mỹ hơn là hàng kém phẩm chất do chính họ làm ra. Dù rằng việc tiêu thụ này có tính chất khác nhau, như dân Mỹ tiêu thụ hàng Mỹ như sự bày tỏ tinh thần yêu nước và góp phần hồi phục kinh tế Hoa Kỳ, trong khi dân Hoa Lục hay các nước đang phát triển thì chuộng hàng Mỹ, hàng ngoại như một sự chứng tỏ "đẳng cấp" xã hội của mình. Với lý do gì thì đây cũng là điều lạc quan cho kỹ nghệâ sản xuất Hoa Kỳ. Các cuộc thăm dò phối hợp giữa Reuter và MFG.com đã cho biết đến 40% các hãng Mỹ đang đặt xưởng sản xuất tại nước ngoài đang lên những kế hoạch khảo sát, so sánh, cân nhắc để đưa sản xuất trở lại Mỹ, trong đó khoảng 25% hãng được thăm dò đã mang một phần sản xuất về Mỹ trong năm qua. Trong khi những bước đầu chưa giúp tạo thêm nhiều công ăn việc làm như chính phủ và người dân mong muốn, các chuyên gia trong lãnh vực này dự báo rằng việc "offshore" đưa sản xuất ra nước ngoài ít ra sẽ chậm lại trong các năm tới, cũng như từng bước gia tăng hàng triệu việc làm cho nhân công Mỹ.

Trở lại trường hợp của hãng Apple đã nhắc bên trên, cho đến cuối thập niên 90 thì phần lớn dây chuyền sản xuất của họ vẫn nằm tại Hoa Kỳ, nhưng rồi đã bị đưa toàn bộ các dây chuyền sản xuất, lắp ráp sang Hoa Lục nhằm gia tăng lợi nhuận và mở rộng căn cứ hoạt động. Tuyên bố của CEO Tim Cook chưa biết là một quyết định chiến lược khác với ý định ban đầu của nhà sáng lập Steve Jobs hay một hình thức "đánh bóng" tên tuổi khi Apple lâu nay vẫn bị chỉ trích đã đưa toàn bộ việc sản xuất iPhone, iPad đầy lợi nhuận sang Hoa Lục. Chưa biết chủng loại nào trong các loại iMac sẽ được mang về Mỹ, cũng như địa điểm đặt xưởng vẫn chưa công bố, nhưng Tim Cook cũng cho biết rằng việc chế tạo mặt kính iPhone và iPad đã được làm tại tiểu bang Kentucky, đồng thời gia tăng số nhân viên tại Austin, Texas thêm hàng ngàn nhân viên trong các năm tới. Hãng Hewlett-Packard (HP) thì cho biết sẽ tạo dây chuyền sản xuất tại Indianapolis để cung cấp máy điện toán cho thị trường nội địa, hoạt động với khoảng 1,300 nhân viên để cung cấp khoảng 2.9 triệu máy điện toán. Không những vậy, một số hãng điện tử nước ngoài đang phát triển như Samsung, LG, Lonovo, Foxconn... cũng có kế hoạch lập xưởng, thuê mướn nhân công tại Mỹ. Một khi các xưởng này hoạt động, chúng sẽ ảnh hưởng dây chuyền đến các hãng nhỏ cung cấp nguyên vật liệu, phụ tùng..., tạo thêm một số công ăn việc làm khác.

Uy tín, giá trị và mức độ tín cẩn với các món hàng được sản xuất tại Mỹ đã tạo được một ưa chuộng lâu năm trên thế giới. Hai thập niên qua chúng bị biến mất nhưng đang có những tín hiệu hồi phục. Các hãng bán lẻ đang tái cấu trúc những chiến lược thương mại của mình về các thương phẩm làm tại Mỹ này. Không thể hàng triệu việc làm cùng các thương phẩm "Made in USA" có thể trở về cùng nước Mỹ qua đêm, nhưng những tin tức, số liệu và đường hướng kinh doanh... năm mới cho phép người dân đặt hy vọng và lạc quan về những vận hội cùng vị trí siêu cường của Hoa Kỳ trước thềm năm mới.

Đinh Yên Thảo

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.