Hôm nay,  

Con Mèo Của Tôi…

03/02/201100:00:00(Xem: 7191)
Con Mèo Của Tôi…

con_meo_cua_toi_bai_tran_van_giang-large-contentTrần Văn Giang

Đã gọi là “Xuân Con Mèo,” thì theo thông lệ, theo truyền thống là phải có tí tí “mùi” Mèo mới trọn bộ phim bộ… Vì vậy, tôi xin viết vài hàng về con mèo “Mùa Xuân” cho hợp lệ “tình trạng quân dịch (")” và cũng nhân tiện, tôi quá giang vào đây thêm một chút đỉnh về “Con Mèo 2 chân” của riêng cá nhân tôi cho vui nhà vui cửa đầu năm con Mèo. Xin nói trước, cũng chẳng có chuyện gì mới lạ đâu. Một con Mèo “Mùa Xuân” thì cũng y hệt như các “Con Mèo” quí vị thường thấy hàng ngày vậy thôi; vì lẽ “văn hóa” Mèo không có lệ “ăn tết” chẳng hạn như vay thêm nợ, trang hoàng nhà cửa, mua sắm quà cáp, chưng diện quần áo mới… (Xin được viết chữ hoa cho con “Mèo” trong bài này).
Việt Nam từ ngàn xưa vốn là nơi tương đối ấm áp, mưa thuận gió hòa, hợp với căn bản nông nghiệp. Đa số người Việt làm việc đồng áng (cày cấy, trồng trọt) và nuôi năm con vật chung quanh nhà là: Trâu (Sửu), Ngựa (Ngọ), Dê (Mùi), Gà (Dậu), Heo (Hợi); và hai con trong nhà là: Chó (Tuất) và Mèo (Mão / Mẹo). Quí vị có để ý là tất cả bẩy (7) con vật vừa liệt kê đều có mặt trong bộ 12 con Giáp của Việt Nam ta.
Khác hẳn với Tầu, “Con Mèo” là một đặc thù văn hóa Việt Nam. Người Tầu dùng “Con Thỏ” (Thố) cho chi thứ Tư của 12 con Giáp chứ họ không dùng “Con Mèo.” Theo tôi, có lẽ vì nước Tầu ở phía bắc (trên nước ta), phong thổ lạnh hơn. Ngoài ra, người Tầu từ thời cổ có đời sống thiên về văn hóa du mục, nghĩa là họ chuyên cỡi ngựa, săn bắn, và liên tục di chuyển thay đổi chỗ ở, cho nên họ không chú trọng vấn đề định cư, canh tác và nuôi gia súc… Thành thử người Tầu ít nuôi Mèo; ít nói về Mèo. Chữ “Mèo” (Miêu) thấy rất ít trong văn bản cổ (thơ, phú, văn) của Tầu; ngược lại, chữ “Thỏ” (Thố) thì thấy rầt nhiều…
Với nền văn hóa nông nghiệp ở Việt Nam, danh từ “Con Mèo” được dùng tượng hình và tượng thanh rất rộng rãi trong văn chương bác học, bình dân, ca dao thơ phú và cả trong ngôn ngữ bình thường trao đổi hàng ngày.
Sau đây xin giới thiệu một bài thơ chữ Nôm tiêu biểu về “Con Mèo” của Nguyễn Trãi:
“Con Mèo / Miêu”
Lọ vằn sinh bởi mãi phương tây
Phụng sự như lai trộm phép thầy
Hơn chó được ngồi khi giỡn bếp
Tiếc hùm chẳng bảo chước leo cây
Đi nào kẻ cấm buồng the kín
Ăn đợi ai làm bàn soạn đầy
Khó mấy sang chẳng nỡ phụ (*)
Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày.
(Nguyễn Trãi Quốc Âm Thi Tập - bài số 251)
(Ghi chú: (*) Bài thơ “Miêu” (Con Mèo) của Nguyễn Trãi trong “Nguyễn Trãi Quốc Âm Thi Tập” là một bài thơ “Thất ngôn bát cú” (mỗi câu 7 chữ và toàn bài gồm tổng cộng 8 câu); nhưng mà qua nhiều văn bản ghi lại “Thi tập” này (mà tôi đã tham khảo) tất cả đều ghi thiếu sót mất một (01) chữ ở câu thứ 7 (chỉ còn lại 6 chữ") Thật là lạ! Tôi cũng không hiểu tại sao" Và tìm hoài không ra! Đành có sao xài vậy!)
“Con Mèo” (4 chân) là một con vật từ tốn, thong thả, hiền lành, được sử dụng trong nhiều hoàn cảnh hàm ẩn nhiều ý xấu. Những cá tính riêng của Mèo được dùng để ví von, ám chỉ, trêu chọc, khiêu khích, đôi khi để sỉ nhục con người qua các tương phản dựa theo những con vật quen thuộc khác như “chuột,” “chó,” “cọp…”
Chẳng hạn:
Trong liên hệ tình cảm nam nữ
Tuy chúng ta đã biết đại khái Mèo là một động vật có vú, đẻ con và nuôi con cho bú…. Nhưng tôi thấy hình như chưa có ai (") “nghiên cứu” để hiểu cho rõ ràng xem Mèo đực “giao hợp” (“cụm từ” này là chữ viết tắt của 4 chữ “giao lưu hợp tác” chứ không có ý gì khác!) với Mèo cái ra thế nào trên nóc nhà mỗi buổi tối (chỉ nghe những tiếng kêu thất thanh, oai oán, khá rùng rợn!!!) Ậy! Thế mà con người đã vội vàng đem con Mèo ra để ví von, gán ép các chuyện yêu đương, bồ bịch lăng nhăng thiếu đứng đắn!
“Mèo chuột:” Ám chỉ chuyện trai gái lén lút.
“Mèo mỡ:” Chuyện yêu đương lăng nhăng.
“Mèo mả gà đồng:” Chuyện trai gái lăng loàn, hạ cấp.
“Mèo lành chẳng ở mả:” Đàn bà hư đốn không lo liệu chuyện gia đình.
“Mèo không ăn vụng thì đi đêm làm gì"” Ám chỉ, ngờ vực chuyện đi ngang về tắt của người không chính chuyên, đàng hoàng.
Cách làm việc
Suốt cuộc đời, Mèo chỉ đơn giản làm có 4 công việc: Ăn, ngủ, bắt chuột, và đi “ị “(dấu kít)… Con người vừa phức tạp vừa “chấp” đã vẽ ra nhiều cách làm việc rất nghe rất “nản;” Đồng thời lại vu vạ cho là “làm” giống y hệt như cách làm việc của Mèo ("!)
“Làm như mèo mửa:” Làm qua loa, đại khái không đi đến đâu cả! Chắc chắn phải làm lại từ đầu mới xong!
“Mèo cào không xẻ vách vôi:” Khuyên trước khi làm việc gì thì phải lượng sức mình; nếu không thì dù cố gắng lắm cũng vô ích.
“Mèo vật đụn rơm:” Kẻ tài trí thô thiển mà muốn làm chuyện đại sự ngoài khả năng của mình.
“Mèo dấu ‘kít:’ ” Cách làm việc thiếu lương thiện.
Cá tính
Mèo có nhiều cá tính rất gần gũi với người. Con người đã dùng những cá tính đặc trưng của “Mèo” để dè bỉu đầy ác ý, đố kỵ, ghen tị với những người khác sống ở chung quanh mình.
“Giấu như mèo dấu ‘kít:’ ” Chê những người dấu diếm một cái gì đó quá kỹ.
“Lấp lấp ló ló như mèo dấu ‘kít:’ ” Dáng dấp lấp ló thiếu vẻ lương thiện.
“Mèo khen mèo dài đuôi:” Tự sướng, tự đề cao, tự khen ngợi, tự công kênh mình lên.
“Ăn như mèo:” Ăn từ tốn, chậm rãi. Phụ nữ ăn như Mèo thì được khen là có nết; nhưng đàn ông ăn như Mèo thì bị xem như có tật xấu.
“Lèo nhèo như mèo vật đống rơm:” Nói dai, nói dài (để xin xỏ điều gì!)
“Mèo ngồi xó bếp:” Tính lười biếng; thiếu bươn chải.
“Im ỉm như mèo ăn vụng:” Che giấu lỗi lầm bằng cách im lặng; hoặc thấy điều gì có lợi thì cố giữ kín chỉ mình biết để mong hưởng một mình.
Hoàn cảnh
Mèo mà cũng có hoàn cảnh nữa hả giời""" Không phải vậy đâu! Đây là hoàn cảnh của chính con người; nhưng con người lại “vờ vĩn” đem Mèo ra làm vật so sánh để khỏa lấp cái tâm địa không được lương thiện của mình" Ai mà biết được"!
“Mèo mù vớ cá rán:” Vận may đến với kẻ nghèo hèn đang túng quẩn, ngặt nghèo.
“Mỡ để miệng mèo:” Đặt trước mặt người thứ gì mà họ đang mong muốn thèm khát.
“Mèo già hóa cáo:” Ngụ ý người già (sống lâu) tích tụ được nhiều kinh nghiệm tốt. Cũng có nghĩa là lúc mới bắt đầu làm việc thì rụt rè nhút nhát; nhưng ở lâu thì tinh ma như qủy.
“Như mèo thấy mỡ:” Nhìn thấy một món lợi trước mắt và thèm muốn chiếm đoạt cho được.
“Run như mèo ướt:” Bị quá lạnh; hoặc quá sợ hãi.
“Tiu ngỉu như mèo cắt tai:” Vì thất bại nên buồn rầu; Vì thất vọng nên nản.
“Kêu như mèo con mất mẹ:” Than vãn, kêu van hơi quá đáng.

“Mèo uống nước bể không bao giờ cạn:” Khuyên người nếu biết sống tiện tặn thì không bao giờ thiếu thốn.
“Chẳng biết mèo nào cắn miêu nào:” Mỗi người đều có sở trường riêng của mình; chưa chắc ai đã hơn ai"
Mèo - Chó
Mèo có bao giờ ưa gì chó (và ngược lại)" Tương tự như vợ lớn và vợ bé có bao giờ quý mến, thân thiện với nhau"! Trong cuộc sống, có nhiều trạng huống, con người phải dùng cả 2 con vật “thù nghịch” này trong cùng chung một vấn đề để trình bày cho trọn vẹn ý nghĩa của một sự kiện.
“Như chó với mèo:” Dường như không thể hòa thuận với nhau được.
“Chó treo mèo đậy:” Phải phòng ngừa những chuyện đáng tiếc sẽ xẩy ra (trộm cắp chẳng hạn).
“Chửi chó mắng mèo:” Chửi bâng quơ, chửi đổng.
“Buộc cổ mèo, treo cổ chó:” Nói kẻ có tính bần tiện, bủn xỉn.
“Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang:” Một quan niệm mê tín ngày xưa.
“Không có chó bắt mèo ăn ‘kít:’ ” Phải dùng người làm một việc gì không đúng với khả năng của họ. (… tôi được chủ bút “cảnh báo” là phải tạm ngưng không nên viết thêm cái “món hữu cơ - organic substance” này nữa!" Chỉ vài trang giấy mà đã dùng cỡ 4 - 5 chữ organic rồi; đã đủ xài..).
“Chó chê mèo lắm lông:” Phê phán người khác mà không thấy lỗi của chính mình.
“Chó gio, mèo mù:” Chê những người đần độn.
“Đá mèo, quèo chó:” Bực mình vì chuyện đâu đâu... nhưng lại trút sự bực tức của mình những trên con vật nuôi trong nhà (hay ‘thủ hạ’ của mình!)
“Chó giữ nhà, mèo bắt chuột:” Ai cũng có nghề nghiệp, công việc riêng của mình. Đừng ghen tị nhau; cũng đừng can thiệp vào chuyện của người khác.
“Mèo đàng lại gặp chó hoang:” Thứ / hạng người vô lại gặp nhau tươmg tự như “Ngưu tầm ngưu!”
“Nhất chó bốn đeo, nhì mèo tam thể:” Loại chó và Mèo có “thịt” ngon (") (Đây là ý kiến riêng của dân nhậu! Tôi không biết nhậu; và chưa hề ăn thịt chó và thịt mèo; cho nên không biết gì để bàn thêm).
Mèo - Chuột
Chuyện “Mèo Chuột” thì đã được bàn qua loa trong phần “tình cảm lăng nhăng” ở trên rồi. Bây giờ lại thấy hai đối tượng “đố kỵ” này cùng nằm chung giường (hay cùng trong một câu nói) mới ly kỳ.
“Mèo già khóc chuột:” Chỉ hạng người hay nói những chuyện đâu đâu, hoang tưởng, không ăn nhập vào vấn đề.
“Mèo khóc thương chuột chết:” (“Miêu khốc lão thử giả từ bi”) Ám chỉ người đạo đức giả.
“Lôi thôi như mèo sổ (xẩy) chuột:” Chỉ sự thẫn thờ, ngơ ngác của người đang tiếc rẻ, nuối tiếc vì trót làm lỡ một dịp may nào đó.
“Rình (vờn) như mèo rình (vờn) chuột:” Sự kiên nhẫn, chờ đợi cho đến khi xong việc mới thôi.
“Chuột gặm chân mèo:” Làm một việc liều lĩnh, nguy hiểm.
“Chồng mèo vợ chuột:” Tình trạng gia đình, hôn nhân đang đứng bên bờ đá (loại "Ông ăn chả, bà ăn nem").
“Chuột cắn dây buộc mèo:” Làm ơn cho kẻ có thể quay lại hại mình.
“Mèo già lại thua gan chuột nhắt:” Người lớn tuổi trưởng thành mà lại nhát gan hơn trẻ con.
“Mèo nhỏ bắt chuột con:” Liệu sức mình mà gánh vác, cáng đáng công việc. Tài hèn sức mọn mà đảm trách việc lớn thì chỉ chuốc lấy hại vào thân.
“Mèo con bắt chuột cống:” Người tuổi trẻ tài cao; làm được việc mà người lớn làm không được.
“Miêu thử đồng miên:” (nghĩa đen là “Mèo chuột ngủ chung”); Ám chỉ những kẻ bất lương a tòng với nhau làm chuyện xấu xa.
Mèo - Cọp
Mèo có hình dạng giống cọp; chỉ có kích thước và môi trường sinh sống là khác nhau. Người Tầu có đôi khi còn gọi Mèo là “Cọp nhỏ” (“Tiểu hổ”) Mèo và cọp được dùng để so sánh 2 sự kiện hoàn toàn tương phản nhau: Lớn-nhỏ; mạnh-yếu; nhanh-chậm...
“Hùm mất hươu tiếc hơn mèo mất thịt:” Càng ở quyền lợi địa vị cao thì càng đau khổ hơn người ở địa vị thấp hơn.
“Nam thực như hổ nữ thực như miu:” Nam ăn như cọp; nữ ăn như Mèo. [Phản: “Nam thực như hổ nữ thực như heo.”]
Chẳng riêng chuyện “Mèo - chuột;” mà chuyện “Mèo - Cọp” cũng được dùng để chỉ vấn đề tình cảm nam nữ, hôn nhân, gia đình không được tốt đẹp; như ý muốn. Đây cũng là sự tương phản trên hai khía cạnh :
1- Pháp lý (")
Mèo để chỉ tình nhân, “bồ nhí…” mặn mà nhõng nhẽo, “thầm lén vụng trộm.” Trong khi “Cọp cái” (còn gọi là “Sư tử Hà đông”) chỉ bà vợ già dữ dằn nhưng “công khai và hợp pháp!” ở nhà (cũng như ở chợ!)
2- Cách ứng xử
Không phải tự dưng vô cớ mà người ta gọi “bồ bịch,” tình nhân là “Mèo.” Có nhiều lời giải thích tại sao đàn ông thích “Mèo” (tình nhân, bồ nhí) hơn “Cọp” (vợ chính thức). Sau đây tôi xin liệt kê một số “trải nghiệm” của các đấng mày râu có máu mạo hiểm, can trường, và gan dạ:
- Mèo không quát tháo ầm ĩ hay gầm gừ như vợ.
- Mèo bao giờ cũng chải chuốt chưng diện; trong khi vợ thì đầu bù tóc rối.
- Vuốt ve “Mèo” có cảm giác mềm mại, thích thú; trong khi “bố bảo” cũng không dám vuốt ve “Cọp.”
- Mèo ăn uống nhỏ nhẹ từ tốn; trong khi Cọp chẳng cần giữ ý tứ chi cho mệt! Tốn thời giờ!
- Mèo biết cách tỏ ra “vâng lời (!)” làm cho đàn ông tưởng bở là “sở hữu chủ.” Trong khi Cọp luôn luôn tỏ ra mình là chủ (Chúa sơn lâm - Chủ gia đình!)
- Mèo có đủ điều kiện dự “thi hoa hậu;” trong khi Cọp thì còn khuya! (Mission impossible!)
- Nếu không may bị Mèo cào thì đôi khi phe ta còn thấy thích thú; chứ một khi mà Cọp chỉ nhe nanh đưa đưa móng ra “dứ” nhè nhẹ thì phe ta phải tìm cách “chém vè” cho mau; Lỡ chậm chân mà “chém” không kịp thì chỉ có từ chết đến bị thương (Đề nghị phe ta nhớ mua “bảo hiểm nhân thọ” trước khi định có “Mèo” – để “Cọp cái” còn có đủ tiền tái giá nhé !)
- Tiếng Việt thật phong phú. “O Mèo” lại còn có nghĩa là “tán gái” mới châm!
Tôi xin tạm ngừng câu chuyện “Con Mèo” loại “khoa học giả tưởng” của tôi ở đây bởi vì “Con Cọp” thật (non-fiction) của tôi dường như vừa mới xem xong hết mấy bộ “phim bộ;” đang quởn không có việc gì quan trọng để làm; có thể quờ quạng sao đó lượm được bài này rồi... đọc!!! Lúc đó bảo đảm “chăm phần chăm” tôi sẽ thành con “Mèo (đực) bị... ướt” thôi!!!
Hẹn tái ngộ trong kỳ tới với nhiều chuyện “Mèo Chuột” ly kỳ hơn....
Trần Văn Giang
(Xuân Tân Mão 2011)
_____
Tham khảo:
- “Tục ngữ phong dao” của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, 1928.
- “Từ điển thành ngữ ca dao” Viện Ngôn ngữ học, 1994.
- “Thành ngữ điển tích” (trong Việt Nam tự điển) do Lê Văn Đức soạn (Nxb Khai Trí – Saigon 1970)
- “Thành ngữ tiếng Việt” của Nguyễn Lực và Lương Văn Đang (Nxb Khoa học xã hội 1976)
- “Văn Chương Truyền Khẩu” của Giáo sư Lê Văn Đặng (Hải Biên Seattle, 1994).
- Bài “Chuyện mèo chuột trong đời sống người dân miền Tây Nam Bộ” của Trần Minh Thương, 2010.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.