Hôm nay,  

Vì Sao Chúng Ta Không Bảo Vệ Được Các Biển Đảo

03/11/201200:00:00(Xem: 8605)
Một Thực Trạng Phũ Phàng

Như vậy là Trung Quốc, sau khi đã lần lượt cho chiếm cứ các biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa, gần đây đã ra pháp lệnh qui phân bổ về hành chánh cũng như quân sự cho Thành Phố Tam Sa mới được thành lập bao gồm các biển đảo này. Cho đến năm 1974, các biển đảo này vẫn còn thuộc trọn vẹn quyền kiểm soát của Việt Nam (Miền Nam) được quốc tế đương nhiên thừa nhận, kể cả Trung Quốc khi ký kết Hiệp Định Paris 1954.

Tuy nhiên, cùng với sự trổi dậy về kinh tế và quân sự trong những thập niên gần đây, Trung Quốc, do chủ trương bá quyền, nên đã lần lượt cho thực hiện sự chiếm cứ các biển đảo này rồi tuyên bố quyền kiểm soát toàn vùng hải phận bao quanh, cùng lúc cho thực hiện sự tuần tra và bắt giữ các tàu thuyền đánh bắt hải sản của ngư dân Việt Nam ngay cả trong các vùng hải phận vốn là của chúng ta.

Sự kiện có thể nói là bắt đầu từ những năm cuối thập niên 1950 sau Hiệp Định Paris. Vào thời điểm này, nhà nước Trung Quốc bổng dưng đơn phương đua ra tuyên cáo trước quốc tế về hải phận 12 hải lý bao quanh lãnh thổ cùng với sự chủ quyền của họ đối với các quần đao Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa), nhưng chỉ là tuyên cáo như yêu sách vì trên thực tế các biển đảo này đang ở dưới sự kiểm soát của hải quân Miền Nam. Lúc đó Trung Quốc, có thể vì lý do,lực lượng còn yếu kém, đã không có những động tác chiếm cứ.

Nhưng ở thời điểm này, vì mong muốn có được sự chi viện kinh tế và quân sự của Trung Quốc để tiến hành cuộc chiến vào Miền Nam, và hơn nữa, các biển đảo này đang ở dưới sự kiểm soát của đối phương Miền Nam, nên nhà nước Miền Bắc đã buột phải đua ra công hàm chính phủ hoanh nghinh tuyên cáo này (trong đó không có nêu lên sự phản đối việc tuyên bố chủ quyền các biển đảo này) vì nghĩ đơn giản rằng việc trước hết cần làm là “phải lấy lòng Trung Quốc, nước đàn anh xã hội chủ nghĩa”.

Tuy nhiên, vào những năm cuối của cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc đã dần dà cho thấy lộ ra ý đồ chi viện của họ cho Miền Bắc là không những nhằm bành trướng thế lực vào tòan vùng các nước Đông Nam Á mà còn là để chiếm cứ các biển đảo của Việt Nam và kiểm soát tòan vùng hải vực Biển Nam Hải (South China Sea), mà ngày nay thường được chúng ta gọi là Biển Đông (hiện chưa có tên tiếng Anh chính thức).

Nhửng hành xử gần đây của Trung Quốc, khi giải thích và bắt buột nhà nước Việt Nam phải tuân thủ Hải Vực Chín Khúc của họ ở Biển Đông, còn thường được gọi là “Đường Lưỡi Bò”, bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa, của chúng ta đã làm cho nhà nước Việt Nam phải ngỡ ngàng và bối rối. Thật ra, đối với Trung Quốc, đây là sự việc nhất quán với tuyên cáo công bố mấy mươi năm trước đây mà Việt Nam đã có công hàm hoan nghinh.

Sự việc xảy ra giống như chuyện anh chàng hàng xóm không lương thiện khéo léo che đậy manh tâm gian xảo , lợi dụng nước đục thả câu, đã xúi dục anh em một nhà phải đánh giết lẫn nhau để có thể vào trong nhà “thâu tóm tài sản”.

Trung Quốc Triển Khai Việc Chiếm Cứ Hoàng Sa và Trường Sa

Sự sụp đổ của chính quyền Miền Nam vào năm 1974 cùng với sự từ bỏ cuộc chiến và ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực này đã tạo ra đầy đủ “nhân tố khoảng trống khu vực” để Trung Quốc có thể mạnh tay thực hiện ý đồ bành trướng kiểm soát toàn bộ Biển Đông, mà lâu nay họ vẫn hằng ấp ủ.

Bằng cách trước hết chiếm cừ các biển đảo, mà trước là ở Hoàng Sa vào năm 1974 và sau đó là Trường Sa vào năm 1988, theo sách lược mà Trung Quốc hoạch định trong chiến lược bành trướng thế lực của họ trên vùng biển này.

Vào những thời điểm đó, lúc đầu vì mãi mê chinh chiến, hai miền Nam Bắc đã không đủ ý thức để nhìn thấy được sách lược mưu đồ thâm độc của họ trong ý đồ chi viện cuộc chiến cho Miền Bắc để mà cùng nhau cảnh giác.

Ngày nay các lãnh đạo của Việt Nam mới ngỡ ngàng vỡ lẽ khi được Trung Quốc ngang nhiên cho biết toàn bộ Hải Vực Chín Khúc chạy dài từ Vịnh Bắc Bộ đến vùng biển ngoài khơi Nam Bộ, bao gồm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc hải phận kiểm soát của Trung Quốc và buột Việt Nam phải tuân thủ sự kiểm soát của họ.

Với sự thả long kiểm soát của Mỹ, Trung Quốc đã cho tiến hành việc thực hiện chiếm cứ lần lượt các biển đảo ở ngoài khơi Việt Nam từ năm 1974 mà không gặp mấy khó khăn để trước hết chỉ đật các căn cứ phòng thủ cơ bản.

Vào những thời điểm này, Việt Nam đang còn mãi mê đối phó với tình hình trong nước, rồi cuộc chiến Campuchia mà phe phái Pol Pot là thân cận của Trung Quốc, lại bị ám ảnh ràng buột bời các tuyên cáo thuần phục Trung Quốc trước đây, và hơn nữa, không đủ năng lực phòng thủ vì tình trạng thiết bị và khả năng phòng vệ đang còn yếu kém của binh chủng hải quân trên các biển đảo này.

Vì vậy, có thể nói là vào những năm đầu sau khi thống nhất đất nước, nhà nước Việt Nam đã quá lơ là việc phòng ngự. các biển đão này, hầu có thể có phương thức và điều kiện đối phó hữu hiệu trước sự xâm chiếm từ phía Trung Quốc. Vào lúc đó, hạm đội của Sô Viết đã được trú đóng tại Vịnh Cam Ranh nhưng đã không giúp ích gì để ngăn cản sự việc này.

Trước năm 1974, họ đã không thể tiến hành được việc này vì các biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa được hải quăn Miền Nam phòng ngự một cách qui mô và chặt chẻ với sự liên kết yểm trợ cũa đồng minh Mỹ. Nhưng vào những năm cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam, sau khi có những thoả thuận trong mật đàm giữa Mỹ và Trung Quốc ở Thượng Hải năm 1972, mà làm ngơ để Trung Quốc có thể mạnh dạn ra tay chiếm cứ các biển đảo..

Động Thái Đối Phó Của Việt Nam Hiện Nay

Cũng có thể từ nguyên do các tuyên cáo và công hàm hoan nghinh về chủ quyền các biển đảo trước đây giữa hai nước Trung Việt, cũng như những “bối cảnh truyền thống liên hệ giữa hai nước huynh đệ xã hội chủ nghĩa” từ trước đến nay, đã làm cho nhà nước Việt Nam hiện nay, dù không bằng lòng việc chiếm cứ của Trung Quốc, cũng không thể bày tỏ thái độ cương quyết để đương đầu phản kháng sự việc chiếm cứ này.

Người ta nhận thấy, dù biết rằng nếu cứ để yên như vậy là xem như giao phó cho Trung Quốc mặc tình chiếm cứ và hợp thức hóa các biển đảo này thuộc về họ, các lãnh đạo của Việt Nam hiện nay vẫn chưa cùng nhau đồng ý được một phương thức hữu hiệu nào để có thể lấy lại các biển đảo này từ bàn tay Trung Quốc.

Nhà nước Việt Nam đã cho thực hiện những tiếp xúc, hội đám trao đổi ý kiến về vấn đề này vơi nhiều nước, kể cả Mỹ hay những đồng minh của Mỹ, nhưng mục đích chỉ là hình thức nhằm mong Trung Quốc.giảm bớt chèn ép mà thôi.

Cũng vậy, chứng tỏ phần nào cho người dân trong nước cũng như thế giới bên ngoài biết được có sự phản kháng của nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại Giao được phép công bố các văn bản phản đối qua hình thức ngoại giao, cũng như nhà nước cho phép tổ chức một số “biểu tình phản kháng có giới hạn” mà thôi.

Bởi vì, nếu người dân tham gia biểu tình bày tỏ thái độ chống lại Trung Quốc một cách quyết liệt, vượt quá giới hạn nhà nước cho phép, thì sẽ bị cơ quan an ninh bắt giữ và trừng phạt một cách thích đáng.

Có lẽ vì sợ sứt mẻ tinh thần giao hảo có truyền thống giũa hai nước, ngươi ta cũng không thể thấy được các lãnh đạo của Việt Nam tự mình đứng ra phản kháng mạnh mẽ việc Trung Quốc chiếm cứ các biển đảo trước công chúng hay cho thực hiện các biện pháp phòng ngự mạnh mẽ ở vùng biển tranh chấp như các lãnh đạo của Philippines đã đang cho làm để chống lại Trung Quốc trong việc tranh chấp vùng biển cạn Scarborough bên cạnh Trường Sa.


Philippines đã làm được như vậy là vì chính quyền và người dân đã cùng nhau sát cánh trong việc bảo vệ cho tiền đồ cho đất nước. Và cũng bởi trong hang ngũ lãnh đạo đất nước của họ không có những thành phần bênh vực cho lập trường của Trung Quốc.

Trong lúc đó thì các lãnh đạo của Việt Nam hiện nay vẫn còn đi theo “đường lối hàng hai”. Nay gặp gở Mỹ, Nhật…bàn chuyện chống Trung Quốc bành trướng, mai đi liên hoan để “ôm hôn thắm thiết” các đồng chí Trung Quốc như ai ai cũng có thể thấy được.

Philippines Đang Thật Tình Chống Lại Sự Xâm Chiếm Từ Trung Quốc

Sự phản kháng kịch liệt của các lãnh đạo và người dân Philippines đang làm cho Trung Quốc bị khựng lại việc chiếm cứ vùng biển cạn Scarborough bên cạnh Trường Sa. Ở bình diện quốc tế, người ta phải ca ngợi sự quả cảm kiên cường của Philippines trước Trung Quốc và biểu dương sự thán phục và đồng tình ủng hộ cho Philippines.

Họ đã cương quyết chống cự lại sự xâm chiếm của Trung Quốc một cách thật tình, kể cả việc đòi đua ra công pháp quốc tề xét xữ việc tranh chấp này với Trung Quốc. Trong khi đó thì tại Việt Nam, nhà nước không có những hành động tích cực như vậy để người dân có thể cùng sát cánh chung vai trong việc này.

Trong lúc đó các lãnh đạo của Việt Nam hiện nay vẫn ung dung xem việc đối phó Trung Quốc chiếm cứ các biển đảo không phải là vấn đề cấp bách. Chờ xem các diễn biến của tình hình quốc tế liên quan đến hải vực Biển Đông mà ứng biến, sau khi sử dụng những “tiểu xảo ” lôi kéo các nước khác, kể cả Asean và Mỹ, vào vấn đề, để làm áp lực với Trung Quôc. Nhưng không làm căng thẳng giao hảo với Trung Quốc nên không đưa vấn đề ra công pháp quốc tế để yêu cầu xét xữ như Philippines và Nhật đang làm trong việc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.

Hiện Nay Việt Nam Khó Thoát Khỏi Vòng Tay Trung Quốc

Vì vậy, việc nhà nước Việt Nam một mặt cho phép Bộ Ngoại Giao công bố những phản đối một cách thân thiện ngoại giao về những hành xữ ngang ngược của Trung Quốc trên Biển Đông, nhưng một mặt khác thì vẫn trấn an người dân trong nước để tạo cảm tưởng là nhà nước Việt Nam vẫn còn đang kiểm soat các biển đảo này bằng cách cho thông tin một vài hình ảnh hay ký sự liên quan là những tiêu biểu điển hình về chính sách của Việt Nam trong vấn đề này.

Đó cũng là điều mong mõi của Trung Quốc cho nên họ vẫn ngang nhiên cho thực hiện chiến thuật “vừa đánh vừa xoa” đối với Việt Nam. Bởi vì họ biết rõ với trình độ và tầm mức của các nhà lãnh đạo ở Việt Nam cũng như bối cảnh xã hội chính trị khu vực hiện nay, thì dù có bị chèn ép ê chề đến đâu đi nữa nhưng đừng để tới đường cùng, thì qua các loại hội nghị hiệp thương giao hảo giữa hai nước được tổ chức sau đó Việt Nam rồi cũng sẽ phải giang tay ra chào đón sự đở đầu của Trung Quốc như đã thấy từ trước đến nay. Dĩ nhiên ở các loại hội nghị hiệp thương giao hảo này giữa hai nước, vấn đề Trung Quốc chiếm cứ Hoàng sa và Trường sa sẽ bị gác lại một bên, không được đề cập tới.

Trung Quốc rất bằng lòng những việc diễn tiến hiện nay nên cố tình dành riêng một vài vị trí ở các biển đảo chiếm đóng cho Việt Nam sử dụng vào những mục đích quảng bá này. Còn thực tế những gì đang xãy ra trên các biển đảo này, thì do chính sách của nhà nước Việt Nam, người dân Việt Nam không có quyền được biết đến. Nhưng rồi đây, ngoài việc cho đấu thầu khai thác dầu khí cũng như kiểm soát hải vực đánh bắt thủy sản, Trung Quôc sẽ cho triễn khai các tour du lịch, các tở chức sự kiện hay hội nghị quốc tế ở Hoàng sa và Trường Sa. Lúc ấy thì Việt Nam sẽ khó lòng mà cản trở, mà chỉ có thể phục tòng để được chia sẻ một vài quyền lợi mà thôi.

Chính vì căn bản chính sách về các biển đảo Hoàng sa và Trường sa của các lãnh đạo Việt Nam hiện nay như vậy nên Trung Quốc đã có thể thông thã tiến hành ngang nhiên việc chiếm cứ và hợp thức hóa việc chiếm cứ các biển đảo của Việt Nam mà tổ tiên chúng ta đã ra công sức gầy dựng nên, vì không gặp phải những trở ngại kháng cự mãnh liệt như trường hợp họ đang phải đối đầu với Philippines.

Rồi đây, với sự yểm trợ đắc lực của những thành phần thân Trung Quốc ở trong hàng ngũ lãnh đạo của Việt Nam, các hội nghị hiệp thương giao hảo như vậy để ca ngợi tình huynh đệ giữa hai nước Trung Việt sẽ được tổ chức nhiều lần trong năm ở nhiều cấp và nhiều nơi để nhằm ru ngủ người dân Việt Nam quên đi vấn đề biẻn đảo.

Khả Năng Dành Lại Chủ Quyền Các Biển Đảo

Trước một bối cảnh như vậy, người ta nhận thấy, nếu Việt Nam chúng ta cương quyết dành lại chủ quyền các biển đảo này, thì ngay tự bây giờ các lãnh đão của Việt Nam cần phải cương quyết đưa vấn đề này ra bình diện quốc tế bằng mọi cách để cả thế giới có thể nhận thức được vấn đề mà ủng hộ lập trường của chúng ta như Philippines đã đang làm.

Các lãnh đạo của Việt Nam cần phải mạnh dạn công khai đứng ra lời kêu gọi toàn dân hợp sức hợp lòng với nhà nước trong việc cương quyết tranh đấu dành lại chủ quyền các biển đảo Hoàng sa và Trường Sa đang bị Trung Quốc xâm chiếm, bằng cách thành lập Ủy Ban Quốc Gia để cứu xét trình tự đưa vấn đề ra công pháp quốc tế để yêu cầu xét xữ .

Đồng thời nhà nước Việt Nam cũng cần phải chính thức tuyên bố trước thế giới việc vô hiệu hóa các công hàm hoan nghinh tuyên cáo bất hợp lý của Trung Quốc mà các lãnh đạo của Việt Nam trước đây đã phải làm vì áp lực của Trung Quốc trong hoàn cảnh chiến tranh.

Cần phải có sự can đảm vì nước vì dân vì nước như vậy trong sự tranh chấp này vì Trung Quốc cho rằng các lãnh đạo Việt Nam hiện nay, do những truyền thống liên hệ về thể chế chính trị giữa hai nước từ trước đến nay, vẫn còn phải e ngại và lo sợ họ trong việc tranh chấp này vớii họ..Họ tin rằng với những thành phần thân Trung Quốc trong hàng ngũ lãnh đạo của Việt Nam nên có thể làm lũng đoạn hàng ngũ, cho nên chúng ta phảỉ cẩn thận cảnh giác.việc này.

Bên cạnh đó, những văn bản hành chánh, bản đồ, tài liệu cổ xưa cũng như chứng cứ truy liệu có được từ trước đến nay chứng tỏ chủ quyền các biển đảo này của Việt Nam cần phải được qui mô tập trung lại để làm thành một hệ thống hồ sơ cơ có bài bản để trình bày ra trước thế giới để bảo vệ lập trường của chúng ta. Không thể chỉ cho đăng tải hay xuất bản rời rạt như hiện nay, vì làm như vậy không đạt được hiệu quả quốc tế...

Nhà nước phải cho các lực lượng phóng vệ duyên hải được canh tân tàu thuyền, trang bị và tăng cường đội ngũ để có thể đối phó với ngoại xâm, thực hiện việc phòng vệ các biển đảo và hải phận một 5tcách hữu hiệu. Việc liên minh quăn sự để thực hiện phòng thủ quốc phòng cho có hiệu quả, vì vậy, phải được cứu xét để thực hiện. cấp bách. Trong hoàn cảnh hiện tại. không thể có sự liên minh quân sự với Trung Quốc, dù biết rằng sẽ có các thành phần thân Trung Quốc ủng hộ việc này.

Nghĩa là các lãnh đạo của Việt Nam phải dám dấn thân quyết chí trong việc này thì mới mong có thể lấy lại các biển đảo đang bị Trung Quốc xâm chiếm Kể cả, khi thấy cần thiết, cần quyết định loại bỏ các thành phần thân Trung Quốc trong hàng ngũ cũng như từ bỏ các ảnh hưởng của mô hình thể chế Trung Quốc trong guồng máy nhà nước, để có thể quyết tâm thục hiện được việc lấy lại giang sơn gấm vóc mà tổ tiên đã khổ công gầy dựng.

Võ Ngọc Phước

Ý kiến bạn đọc
05/11/201216:36:36
Khách
Ông Võ Ngọc Phước ơi, ông viết tào lao quá. Hiệp đinh Pải về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký bởi Mỹ, VNDCCH, chính phủ lâm thời CHMNVN và VNCH vào ngày 27/1/1973 tại Pari chứ năm 1954 làm gì có hiệp định Pari về Việt Nam. Năm 1954 chỉ có hiệp đinh Giơ-ne-vơ (Genève) về Việt Nam ông ạ. Ban biên tập Việt Báo sao không phát hiện ra điều sai trái nói trên mà cứ cho đăng y nguyên cái sai của ông Võ Ngọc Phước vậy?
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.