Hôm nay,  

Khủng Hoảng Tài Chính Toàn Cầu

29/08/201200:00:00(Xem: 11857)
Cái nhân ở đây chính là chuyện mắc nợ.

Cách đây bốn năm, cũng sau Đại hội Toàn quốc của hai đảng Dân Chủ rồi Cộng Hoà để chọn người ra tranh cử Tổng thống Hoa Kỳ, vụ sụp đổ của tập đoàn đầu tư Lehman Brothers vào ngày 15 Tháng Chín năm 2008 đã đảo lộn tình hình kinh tế và chính trị của nước Mỹ. Thật ra, thế giới đã trôi vào một chu kỳ khủng hoảng tài chính khởi sự từ một năm trước đó mà ít ai thấy. Năm năm sau, là ngày nay, Diễn đàn Kinh tế trở lại nguyên ủy của vấn đề qua phần trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.

Vũ Hoàng: Xin chào tái ngộ ông Nghĩa. Thưa ông, đúng bốn năm trước, Hoa Kỳ có tranh cử tổng thống như năm nay. Lần trước, Đại hội của đảng Dân Chủ vừa kết thúc vào cuối Tháng Tám và của đảng Cộng Hoà vào đầu Tháng Chín thì khủng hoảng tài chính bùng nổ ngày 15 Tháng Chín từ vụ sụp đổ của tập đoàn đầu tư Lehman Brothers cùng nhiều tổ hợp tài chính khác. Vụ khủng hoảng xảy ra giữa một nạn suy trầm sản xuất manh nha từ Tháng 12 năm 2007 và gây chấn động kinh tế từ Hoa Kỳ qua Âu Châu rồi lan rộng khắp nơi. Ngày nay, tình hình vẫn chưa khả quan và khối Euro trong Liên hiệp Âu châu còn bị nguy cơ tan rã như nhiều nhà nghiên cứu quốc tế đã cảnh báo. Vì vậy, kỳ này, chúng ta sẽ trở lại hồ sơ đó, ông nghĩ sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa ông, qua phần tóm lược vừa rồi, ta thấy ra một chuỗi thời điểm trước sau. Khởi đầu là nạn tuy trầm kinh tế Hoa Kỳ vào cuối năm 2007, đến hiện tượng về sau người ta gọi là "Tổng suy trầm Toàn cầu" trong hai năm 2008-2009. Ở giữa là vụ Lehman Brothers cùng tập đoàn bảo hiểm AIG và nhiều cơ sở khác phá sản vào Tháng Chín năm 2008.

- Khi các biến cố dồn dập xảy ra như vậy, ta khó thấy ra tương quan nhân quả, tức là cái gì là nguyên nhân và cái gì là hậu quả. Phải chăng, suy trầm kinh tế Hoa Kỳ vào cuối năm 2007 mới làm các cơ sở tài chính bấp bênh nhất bị phả sản? Vào thời điểm bốn năm trước, nói chung người ta đều bị bất ngờ và lúng túng trong cách diễn giải và sau đó là cách ứng phó. Bây giờ, với chiều dài đủ dày của thời gian, may ra ta có thể thấy được một vài mấu chốt của cả hồ sơ rắc rối này.

Vũ Hoàng: Nếu vậy, xin ông nhắc lại về các mấu chốt đó, ít ra là trong khung cảnh thời gian.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin được nhắc lại là Tháng Ba năm 2008 đã có biến cố tiên báo cơn khủng hoảng. Đó là khi tập đoàn đầu tư Bear Sterns của Mỹ bị vỡ nợ và tiêu vong sau 85 năm hoạt động và được bán lại cho hệ thống ngân hàng JP Morgan Chase. Trước đấy, bên kia Đại Tây Dương cũng có dấu hiệu biến động khi nhiều ngân hàng của Anh bị khủng hoảng và nhất là khi ngân hàng BNP-Paribas của Pháp bị mất thanh khoản là hết tiền mặt vào mùng bảy Tháng Tám năm 2007, cách nay đúng năm năm.

- Cho đến giờ, hầu hết đều nghĩ nguyên do của khủng hoảng là sự sụp đổ của hệ thống tín dụng gia cư đầy rủi ro của Hoa Kỳ. Đó là loại tín dụng thứ cấp hay "sub-prime", hạng thấp về an toàn, đã gây lỗ lã cho các công ty tài trợ sau khi trái bóng đầu tư về gia cư và địa ốc bị bể năm 2006. Tôi thiển nghĩ nguyên nhân nó còn phức tạp và trầm trọng hơn vậy nếu ta tự hỏi là vì sao lại có bong bóng đầu tư địa ốc?

- Một lý do khác khiến mình phải tìm giải đáp ở chỗ sâu xa là nhiều nước Âu châu, như Anh hay Ireland và Tây Ban Nha cũng có bong bóng đầu tư địa ốc và trái bóng của họ tương đối còn lớn hơn của Mỹ. Họ bị khủng hoảng vì nhiều lý do nội tại ở bên trong chứ không vì bị hiệu ứng vỡ nợ tại Hoa Kỳ. Vì vậy, ta cần tìm ra giải đáp ở chỗ khác.

Vũ Hoàng: Ông nêu ra một nghi vấn đáng chú ý là vì sao mà Âu Châu và Hoa Kỳ lại có hiện tượng bong bóng đầu tư hay đầu cơ trên thị trường bất động sản? Lý do đáng lưu ý là về sau Việt Nam và Trung Quốc cũng có hiện tượng bong bóng. Người ta giải thích thế nào về vụ này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi xin nêu hai vấn đề để biết thận trọng về phương pháp nghiên cứu trước những loại vấn đề quá phức tạp.

- Đầu tiên, hơn 80 năm trước đã có vụ sụt giá cổ phiếu tại Mỹ vào tháng 10 năm 1929. Sau vụ sụt giá là trận Tổng khủng hoảng 1929-1933 với hậu quả kéo dài đến Thế chiến II vào năm 1939. Phải khá lâu sau đấy người ta mới hiểu ra từng diễn biến trước sau để thấy rằng không phải nạn sụt giá cổ phiếu mà chính là các kế hoạch ứng phó sau đấy mới gây ra Tổng khủng hoảng kéo dài và lan rộng qua xứ khác. Đó là hiện tượng gọi là "hậu quả bất lường" của các liều thuốc đổ bệnh. Nói như vậy để ngày nay ta nhìn ra liều thuốc đổ bệnh khi Việt Nam ào ạt bơm tín dụng nhằm kích thích kinh tế với hậu quả là bong bóng địa ốc và khủng hoảng ngân hàng vì nợ xấu.

- Điều ấy dẫn ta đến vấn đề thứ hai là sai lầm về phương pháp nhận định. Đó là hiện tượng gọi là "post hoc", nôm na là "trước-sau". Người ta cứ tưởng rằng việc gì xảy ra trước thì là nguyên nhân của chuyện xảy ra sau. Thí dụ dễ hiểu là cứ thấy con gà gáy rồi mặt trời mới mọc thì người ta kết luận sai rằng nhờ gà gáy nên mặt trời mọc. Người ta có thể lầm lẫn về tương quan nhân quả hoặc nhận vơ về những thành tích không có.

- Sau khi đã nhìn ra bối cảnh như vậy mình mới nói về cái nhân của vụ khủng hoảng khiến nhiều cơ sở đã theo nhau vỡ nợ như một dây chuyền. Cái nhân ở đây chính là chuyện mắc nợ.

Vũ Hoàng: Ông đã dành một thời gian rất dài để dần dần nói đến cái nhân của mọi sự là nợ nần? Phải chăng, ông hàm ý là cả Hoa Kỳ, Âu Châu và Nhật Bản ngày nay đều bị điêu đứng vì vay nợ quá nhiều? Và sau ba khối kinh tế tiên tiến này thì nhiều xứ khác, kể cả Trung Quốc hay Việt Nam, cũng có thể bị những tai họa tương tự?


Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Với thời gian thì mình cũng có thể sáng mắt ra sau khi tự hỏi là vì sao lại vỡ nợ? Câu hỏi ấy dẫn tới vấn nạn kế tiếp là vì sao lại đi vay tới mức không trả được nợ?

- Một tiêu chuẩn đo lường mức vay nợ là so sánh với Tổng sản lượng GDP. Ta hãy khởi sự kể từ sau Thế chiến II với nhóm G-7 là bảy nước công nghiệp hàng đầu của thế giới, gồm có Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu và Nhật Bản, và với gánh nợ của nhà nước mà ta gọi là "công trái". Yêu cầu tái thiết sau chiến tranh khiến gánh nợ vượt 110% Tổng sản lượng kể từ năm 1950. Nhưng sau đó giảm đều, 25 năm mới xuống tới 35% GDP, vào năm 1975. Thế rồi từ đấy, các nước lại vay mượn quá nhiều, tới năm 2007 thì gánh nợ vượt 80% và khủng hoảng bùng nổ. Khi biến động xảy ra, nhóm G-7 lại tăng chi để kích thích kinh tế khiến gánh công trái đã vượt 120% của GDP, còn cao hơn thời tái thiết hơn 60 năm về trước. Gánh công trái bùng phát trong một chu kỳ dài hơn 30 năm và khi đến hồi phải trả nợ thì mọi sự đều đình đọng. Đó là nguyên nhân sâu xa nhất.

- Nhưng giai đoạn chồng chất nợ nần ấy cũng là thời tăng trưởng ngoạn mục nhờ lãi suất thấp. Chính là lãi suất thấp khiến người ta càng dễ đi vay. Thị trường gia cư chứng kiến hiện tượng lạc quan hồ hởi đó. Lãi suất rẻ và chính sách khuyến khích dân chúng vay tiền mua nhà có khi vượt quá khả năng trả nợ đã thổi lên trái bóng bất động sản và làm nhà cửa lên giá. Khách nợ có ngôi nhà lên giá đã lại thế chấp tài sản này để vay thêm. Như riêng trong năm 2005, dân Mỹ vay thêm 720 tỷ đô la chỉ nhờ trị giá căn nhà, và 720 tỷ là số tiền kích thích tiêu thụ còn lớn hơn biện pháp kích cầu của chính phủ sau này. Nhưng khi căn nhà sụt giá và khách nợ phải bóp bụng trả tiền thì mọi sự đều sụp đổ. Thế rồi tư nhân dành dụm chừng nào để trả nợ thì chính quyền lại tăng chi chừng đó để kích thích kinh tế và gánh nợ từ khu vực tư đã chuyển qua khu vực nhà nước.

Vũ Hoàng: Ông nhắc đến trái bóng gia cư tại Mỹ, còn tại Âu châu thì sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Chúng ta cũng gặp hiện tượng đó mà còn trầm trọng hơn.

- Âu châu cũng có bong bóng gia cư địa ốc, lại còn gặp sự lạc quan hồ hởi khi Chiến tranh lạnh kết thúc năm 1991, các nước Đông Âu được bung ra tái thiết và phát triển theo kinh tế thị trường. Rồi việc thống nhất tiền tệ từ năm 1999 khiến nhiều quốc gia vay mượn quá khả năng thanh toán để thi hành chính sách kinh tế bao cấp. Nhưng Âu châu khó tìm ra giải pháp cứu nguy vì đã thống nhất thương mại giữa 27 thành viên của Liên hiệp Âu châu và về tiền tệ giữa 17 hội viên của khối Euro mà chưa thống nhất về chính trị hoặc ít ra về chính sách công chi thu chung giữa các hội viên với nhau.

- Đã thế, chủ trương kinh tế bao cấp trong nhiều thập niên còn dựng lên rào cản cho việc cải cách thị trường lao động để nâng mức cạnh tranh. Nếu 17 nước trong khối Euro cố duy trì hệ thống tiền tệ thì có khi gây rạn nứt cho cả Liên Âu. Nhìn vậy thì Âu châu bị khủng hoảng vì cái nhân tự tại ở bên trong, và biến động từ Hoa Kỳ chỉ là cái duyên mà thôi.

Vũ Hoàng: Còn trường hợp Nhật Bản thưa ông, xứ này mới có mức vay mượn cao nhất trong khối công nghiệp hoá, vì sao lại như vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì dân Nhật có chính sách kinh tế bao cấp nhất nhằm bảo vệ tình liên đới trong một xã hội thuần chủng và quyết liệt gìn giữ tinh thần tôi xin gọi là "rau cháo có nhau". Họ có sức tiết kiệm rất cao và dân chúng cho nhà nước vay tiền để duy trì tình trạng đó. Nhật đã bị bể bóng từ 20 năm trước nên kinh tế suy trầm bảy lần liền. Chính quyền xứ này vay tiền của dân, chứ không vay nước ngoài, để tiếp tục chống đỡ một cách tuyệt vọng với gánh công trái đã cao hơn 240% Tổng sản lượng GDP và tình trạng này không thể tiếp tục nên người ta còn chờ đợi một hiệu ứng Nhật Bản, nền kinh tế thứ ba của thế giới, cho kinh tế toàn cầu.

Vũ Hoàng: Câu hỏi sau cùng thưa ông, rồi đây tình hình các nước đang phát triển sẽ ra sao khi mà các nền kinh tế công nghiệp hoá đang phải thắt lưng buộc bụng để trả nợ sau mấy chục năm vay mượn quá nhiều?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Để thoát hiểm, khối công nghiệp hoá nói chung đều cắt lãi suất tới sàn, tức là mấp mé 0%. Hậu quả bất lường cho các nước đang phát triển là họ dễ nhập khẩu chính sách tiền rẻ, là cũng lại đi vay và tiếp nhận đầu tư nước ngoài để rồi thổi lên bong bóng đầu tư trong khi xuất khẩu sa sút vì thị trường nhập khẩu của Âu-Mỹ-Nhật đều sẽ giảm. Các nước này chỉ có hy vọng vượt qua nguy khốn nếu có chính sách tiền tệ chặt chẽ hơn, bớt được phản ứng đi vay và tránh được nạn bong bóng đầu tư. Những nước có chính sách vĩ mô lỏng lẻo nhất thì dễ bị lạm phát, khủng hoảng ngân hàng trong khi vẫn lãnh nguy cơ suy trầm.

- Nói chung thì cơ sự ngày nay có nguyên nhân lâu dài từ mấy chục năm trước nên tình hình khó khăn cũng kéo dài mất nhiều năm, và dài nhất kể từ vụ Tổng khủng hoảng 80 năm trước. Gặp hoàn cảnh đó mà cứ tiếp tục đi vay và gây thêm bội chi ngân sách thì người ta chỉ lao về phía trước, vào trong một vực thẳm còn nguy ngập hơn. Chúng ta mong rằng cuộc tranh cử hiện nay tại Hoa Kỳ có thể làm sáng tỏ vấn đề để lãnh đạo chọn hướng giải quyết khác, nhưng riêng tôi thì chẳng mấy lạc quan trước một vấn đề quá sâu xa mà thế hệ ngày nay có khi đã quên mất nên cứ chỉ đòi giải pháp dễ dãi rồi sẽ lại đánh bùn sang ao.

Vũ Hoàng: Đài Á châu Tự do xin cảm tạ chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về cuộc trao đổi này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.