Hôm nay,  

Tôi Đọc Những Tháng Năm Cuồng Nộ Của Đ.K.

18/08/201100:00:00(Xem: 9372)
Tôi Đọc Những Tháng Năm Cuồng Nộ Của Đ.K.

Đỗ Xuân Tê
Đọc một tác phẩm chưa in thành sách của một tác giả có bút hiệu nhưng không viết cho đầy chữ mà lại viết tắt, vô hình chung người viết muốn dấu tên, dấu xuất xứ của mình. Cũng may là không gian của cốt truyện có nơi chốn, thời gian của tác phẩm có tháng năm, tuy khó đoán tên nhưng dễ dàng đoán tuổi vì gần như tác giả sống đồng thời với khung thời gian dành cho nhân vật chính trong truyện.
Những Tháng Năm Cuồng Nộ được viết bởi Đ.K. Có thể vì tính chất nhạy cảm tác phẩm chưa được in trong nước nên tác giả “tung lên mạng” cho dễ tới tay người đọc. Qua sự giới thiệu của một bạn văn, anh T. Vấn, tôi được đọc toàn bộ tác phẩm trên diễn đàn talawas. Tuy chỉ khoảng 200 trang, được đăng làm nhiều kỳ, có lời bình của các độc giả đọc trước, nhưng tôi lướt bỏ phần này mà đọc thẳng từ đầu đến cuối (qua bản tự in ra) để thưởng thức trọn vẹn và có dịp ghi lại những cảm nhận cá nhân.
Mấy năm về sau này, tôi ưa đọc những tác phẩm của nhà văn trong nước, trong số họ nhiều người có tài, dám đi vào những mảng đề tài giàu chất nhân văn, đầy tình nhân bản, bỏ lại đàng sau lối viết minh họa trong những thập niên của nền văn nghệ chỉ huy. Những Tháng Năm Cuồng Nộ hình như cũng muốn soi rọi một điều gì, và qua nhân vật “thằng chó đẻ” tác giả muốn dùng nó như một nhân chứng hé lộ nhiều cảnh đời gian nan oan trái của hơn nửa thế kỷ giông bão khởi đi từ nạn đói Ất Dậu 45 cho đến những năm đầu của thiên niên mới. Càng đọc tôi càng tâm đắc với thằng chó đẻ, tôi cùng tuổi với nó, tuy tôi ngoài bắc, nó ở trong nam, thực sư là mảnh đất khu 5 cũ, nhưng những gì thằng chó đẻ biết tôi cũng biết một phần, những gì thằng chó đẻ can dự và trải nghiệm, thì tôi hoặc thành viên trong họ hàng tôi tùy nơi chốn và thời điểm cũng không thoát khỏi cơn xoáy của những tháng năm cuồng nộ. Nhìn chung thằng chó đẻ nói hộ tôi và thế hệ tôi nhiều điều, gợi lại trong chúng tôi những ký ức đau thương với niềm phẫn nộ tưởng chừng đã tắt.
Trong truyện thằng chó đẻ là nạn nhân của một xã hội bị kềm kẹp giữa hai lằn đạn, thân phận chó đẻ của nó không còn là của riêng nó mà nằm trong mẫu số chung của nhiều số phận do hệ quả đấu tranh giai cấp của một xã hội hậu thuộc địa, để khi nhìn lại có lúc người ta muốn gọi những tháng năm cuồng nộ là những…tháng ngày chó đẻ. Hai từ chó đẻ không cần viết trong dấu ngoặc, chẳng cần che đậy hay cảm nhận theo nghĩa bóng nghĩa đen, mà cứ lần về những dấu tích của một làng quê miền trung có tên An Định, nơi sinh ra và lớn lên của thằng chó đẻ người đọc mới thấy hết nỗi lòng của tác giả mà tôi cứ đoán già đóan non quê quán ở Phú Yên.
Dù Đ.K. không nhận mình là nhà văn mà chỉ là ‘một công dân hạng hai biết cầm bút’, nhưng trong cách viết và phương pháp thể hiện, người đọc vẫn đánh giá ông là cây bút thuộc hàng cao thủ. Tác phẩm này tôi nghi không phải là tác phẩm đầu tay, hay nếu nó là đứa con đầu lòng thì chính nó đã được thai nghén qua nhiều thập niên, âm ỷ chứa chất trong đầu để rồi không còn kềm nổi đã bật ra bằng những trang viết tràn đầy phẫn nộ pha máu và nước mắt. Ông có cái tài biết chuyển tải sự việc hầu như ai cũng biết ai cũng nghe, nhiều bi kịch thời đại dù cho chứng nhân đã mất dạng, thủ phạm đã phủi tay, niềm đau đã thành sẹo, oan trái phôi phai, oan sai lấp liếm, nhưng bằng nhân vật thằng chó đẻ, Đ.K. đã truyền sức cho nó để tự nó thuật lại không bằng ngôn ngữ chó nhưng bằng tiếng người khơi gợi sinh động những điều mắt thấy tai nghe về những mảnh đời đen trắng của một thời chỉ nhớ mà khó quên, cố quên nhưng lại nhớ, lúc nhớ lúc quên…
Trong văn học hiếm thấy nhà văn dùng hình tượng chó để thể hiện nhân vật chính của mình, trường hợp mới đây là cá biệt khi nhà văn người Nam Mỹ, Mario Vargas Llosa, đoạt giải Nobel văn chương 2010, trong một tác phẩm mang tính chiến đấu chống lại những bất công của xã hội Peru hồi thập niên ’30, ông đã dùng những con chó làm hình tượng nhân vật thay cho giới thanh niên đương thời và tác phẩm đã tô đậm cho tên tuổi của ông. Trong chừng mực nào đó, Đ.K. cũng tiếp cận theo lối thể hiện này, ông đã thành công trong cách lôi cuốn người đọc qua nhân vật khi chào đời đã bị thả trôi sông, được một người đàn bà lam lũ không chồng không con nhưng có lòng nhân hậu nhặt về, nuôi dưỡng bằng sữa của con chó mới đẻ, từ đó xóm làng gán cho cái tên ‘thằng chó đẻ’, rồi cũng từ đây thân phận nó gắn liền với vận nước nổi trôi đồng hành với những số phận lúc nào cũng chỉ biết bám lấy ruộng đồng, với khát vọng cả đời chỉ mong được sống thanh binh trong tình yêu quê hương chòm xóm.
Cốt truyện trải dài trên 60 năm của một thời quê hương giông bão, trong bối cảnh của một làng quê miền nam Trung bộ, một địa bàn mà phong trào Việt Minh làm mưa làm gió khởi đi bằng thời kỳ chín năm chống Pháp, tiếp tục cho đến khi hòa bình lập lại, mào đầu cho các đối kháng về ý thưc hệ của chin năm thời ông Diệm, theo sau là cuộc chiến tương tàn nam-bắc có sự can dự của người Mỹ, cứ thế dai dẳng cho đến ngày tàn cuộc. Phần cuối của cuốn sách đá động nhiều đến những năm tháng của chính quyền mới, câu chuyện khép lại khoảng đầu năm 2000. Khung thời gian được tác giả sử dụng những dấu mốc lịch sử có thật, nhưng sự việc được khái quát trong bối cảnh của không gian thực tế không tỷ lệ thuận với chiều dài năm tháng của cốt truyện.

Tất nhiên trong những cái chung cũng có cái riêng, quả là thiếu sót nếu không điểm qua sơ yếu lý lịch thằng chó đẻ.Thật sự khi được nhặt về, cô Sáu bà mẹ nuôi suốt đời bảo vệ cưu mang nó cũng có đặt cho nó một cái tên cúng cơm. Tuổi thơ khó khăn của nó đồng hành với chin năm đầu, số phận mạt rệp của nó trưởng thành với chín năm sau, nhờ có dây mơ rễ má với loài chó, nó đi quân dịch phục vụ trong một đơn vi thám sát lo nuôi chó cho lính Mỹ, hết chiến tranh về làng bị đi cải tạo một thời gian, về quê sống lây lất như những công dân hạng hai dưới chế độ mới, lúc này mẹ nuôi đã chết vì trúng đạn trong một trận càn của trực thăng Mỹ, nó không lấy vợ mà muốn lấy cũng chẳng ai lấy. Câu chuyện kết thúc khi tác giả tự nhiên cho nó có một thằng con, kết quả giây phút mây mưa tình cờ nơi Phố Núi giữa nó và chị Thảo, một thiếu nữ nó thầm yêu trộm nhớ khi cô này đi tìm em đang đi lính trên Pleiku cũng là nơi đóng quân của thằng chó đẻ. Gần hai mưoi năm sau nó mới được giáp mặt đứa con rơi, do sự tiết lộ của mẹ thằng bé. Một thanh niên thuộc thế hệ “hậu chó đẻ” mang hai dòng máu không can dự gì với những nhơ nhớp của thời kỳ chó đẻ đã làm cho nhân vật chính của cốt truyện đầy tự hào và biết đâu cũng là kỳ vọng của Đ.K. khi ông muốn làm vơi đi nỗi cuồng nộ của một thời quê hương giông bão.
Người đọc dễ thấy dụng ý của tác giả khi ông tập trung công sức cho việc khắc họa sâu sắc các nhân vật vừa bằng tính cách vừa qua lời thoại, trong những biến động của khung cảnh làng quê dưới thời chống Pháp chín năm. Đây là phần nổi bật nhất và thành công nhất của cuốn sách khi tác giả không hề khoan nhượng trong việc lột tả phơi bày tính chất dã man của phong trào cải cách ruộng đất với những thủ thuật tố giác, dàn dựng chụp mũ, đấu tố, thủ tiêu… Chẳng phải là lần đầu các độc giả, trong đó có tôi, được đọc những câu chuyện loại này, mà thực tế nhiều nhà văn miền Bắc có lương tri đã lợi dụng thời điểm mở cửa của những năm cuối thập niên ’80, đã trung thực lật lại mảng đề tài từng gây biết bao đau thương oan trái trải dài tứ nam ra bắc.
Điều đáng nói là dòng thời gian đã bước sang thế kỷ 21, dù khơi lại câu chuyện đã cũ nhưng với bút pháp siêu thực kết hợp với văn phong đời thường pha niềm phẫn nộ, tác giả đã mượn tay thằng chó đẻ lôi cuốn người đọc giai đoạn đầu của Những Tháng Năm Cuồng Nộ phải suy nghĩ, ray rứt. Người ta sẽ nhớ mãi những cô Sáu, những chị Thảo, điển hình cho những tấm lòng nhân hậu đại diện cho cái thiện vốn dĩ ăn sâu trong tâm trí người Việt và người ta cũng không thể quên những loại như ông Khứ, cô Thành, đại diện cho lớp người mù quáng đi theo phong trào, lúc nào cũng lấy cái nhân dân làm rào chắn cho hành động của mình khi cái ác lên ngôi.Tôi nhớ có một cán bộ xã khi không được tập kết ra Bắc, lại được cấp trên an ủi cứ ở lại dựa vào nhân dân mà sống chờ ngày thống nhất, tay này đã văng tục, “Đ.M., tao đái vào cái nhân dân”. Có lúc văn phong của Đ.K. đã minh họa huỵch toẹt như thế đấy.
Nói vậy không hẳn chỉ có trấn áp đấu tố về phía Việt Mimh, mà khi có chiến dịch tố Cộng ở miền nam để vạch mặt, thanh toán các cán bộ nằm vùng sau 54, nhiều chuyện tố oan, bắt lầm giết vội cũng bị ta thán ở cấp hạ tầng cơ sở xã ấp. Người đọc cũng ghi nhận trong cuộc đấu tranh ý thức hệ quyết liệt của hai phe, thủ đoạn ‘chụp mũ’ được cả hai phía sử dụng như thủ thuật thời thượng. Thậm chí khi đất nước hết chiến tranh, thói chụp mũ được cả Cộng sản trong nước và người Việt hải ngoại nâng nó lên tầm ‘nghê thuật’ làm điêu đứng biết bao thân phận không có cơ hội lên tiếng phân bua bào chữa, cụ thể không ưa ai cứ chụp cho kẻ đó cái nón cối, không về phe mình,gán ngay là phản động, là ngụy, là tay sai cho Mỹ. Những cái mũ Việt gian, bán nước, nằm vùng, ăng ten, chỉ điểm tùy vụ việc được chụp mũ không thương tiếc cho các đối tượng chỉ vì phe nọ không cùng cánh với phe kia, cá nhân này thù vặt cá nhân khác, cứ thế như vòng kim cô áp đặt lên nhau triền miên không dứt.
Điểm lại câu chuyện Những Tháng Năm Cuồng Nộ tất nhiên cũng có những mặt yếu của nó. Tác giả phần nào ôm đồm khi dồn bao sự kiện bề bộn của lịch sử trải dài cả 60 năm chỉ gói gọn trong 200 trang giấy. Cách nhìn và lối thể hiện có độc đáo, khách quan, cụ thể 12 chương đầu của thời kỳ trước và sau 54, nhưng phần còn lại của tác phẩm, Đ.K. hơi ‘đuối sức’ khi không thể lột tả tính cách phức tạp của con người và cơn xoấy khốc liệt của thời cuộc trong giai đoạn trước và sau 75. Độc giả có thể thông cảm điều này khi tác giả cố kéo dài mãi đến năm 2000, một phần cũng là để ‘coi mặt’ giọt máu rơi của thằng chó đẻ, làm nút thắt có hậu cho một cốt truyện vốn dĩ đã quá đầy tang thương và nước mắt.
Để khép lại cảm nhận sau khi đọc, tôi hiểu nỗi băn khoăn của tác giả khi ông thả tác phẩm của mình trên mạng, không biết ‘sống chết thế nào là số phận của nó’, nhưng cũng như thân phận thằng chó đẻ mới sinh đã bị thả trôi sông đã sống sót và được người đời cưu mang, thì Những Tháng Năm Cuồng Nộ cũng được độc giả bốn phương trên mạng đón nhận và đánh giá cha đẻ tinh thần của nó như một cây viết tuy ẩn danh nhưng tỏa sáng, đã sản sinh một tác phẩm văn học sinh động tuy vỏn vẹn vài trăm trang nhưng có bề dày và sức thuyết phục như một “cáo trạng về chiến tranh” đáng đọc và nên đọc.
Đỗ Xuân Tê
Cali, tháng 8 -2011

Ý kiến bạn đọc
19/08/201117:08:43
Khách
Tập sách này đã được nhà văn Trần Hoài Thư xuất bản ở tủ sách của Thư Quán Bản thảo. Muốn có sách , xin liên lạc : tranhoaithu@verizon.net
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.